vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:

(Kính gửi các đồng nghiệp trong Hội nhà văn Việt Nam)

Đăm San, người dám nghĩ điều không ai dám nghĩ
Đăm San, người dám làm điều không thể làm!
TRƯỜNG CA ĐĂM SAN

Tôi đứng về phía những người chưa bao giờ khuất phục
Về phía những người đàn ông và đàn bà mà tính khí không bao giờ khuất phục
 WALT WHITMAN

Bùi Minh Quốc
Đại hội 4 Hội nhà văn Việt Nam (mà tôi có tham dự, họp tháng 10 năm 1989 tại Ba Đình) hội trường nóng lên từng giờ.Ngay phút đầu, khi nghe giới thiệu xong danh sách đoàn chủ tịch, tiến sĩ Phan Hồng Giang liền đứng dậy chất vấn : “Ông Tô Hoài ngày mai bay đi Cai-rô họp hội nghị nhà văn Á – Phi, tại sao lại để ngồi ở đoàn chủ tịch ? Cần dành vị trí ấy cho người khác thực sự làm việc”.Đại hội dấy lên làn sóng phản đối.Thế là ông Tô Hoài phải tuyên bố rút khỏi đoàn chủ tịch.Theo đề cử và biểu quyết tức thì của đại hội, nhà thơ nữ Ý Nhi được bổ sung vào đoàn chủ tịch .Sự kiện này là cú đột phá chưa từng có, bứt ra khỏi một cái nếp cố hữu bấy lâu – mọi việc từ nội dung đến nhân sự đều được sắp đặt trước dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban bí thư trung ương Đảng, còn những người dự đại hội chỉ là những con rối bỏ phiếu hoặc giơ tay để hợp thức hoá cho sự sắp đặt ấy (Vào giờ giải lao, đã diễn ra một cuộc đối thoại bình đẳng cởi mở thẳng thắn giữa nhà thơ Ý Nhi với cố vấn Lê Đức Thọ  – một nhân vật đầy quyền uy chi phối chính trường Việt Nam nhiều thập niên – về vấn đề đại hội nên hay không nên bầu trực tiếp Tổng thư ký Hội).Không khí đại hội càng nóng dữ bởi lời lẽ không chút kiêng dè của nhà văn nữ Dương Thu Hương nhằm thẳng vào điều cấm kỵ số 1  : “Cần nhấn mạnh rằng Đảng phải biết ơn Nhân Dân chứ không nên chỉ nói Nhân Dân biết ơn Đảng!” (Ít năm sau, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nhắc lại, rằng công ơn của Nhân Dân đối với Đảng là công ơn sinh thành, nhưng ông nói chỉ để mị dân chứ chưa bao giờ tiến hành sinh hoạt đảng thật rốt ráo cho đảng viên, trước hết là đảng viên thuộc bộ phận mà cựu chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An gọi là  “Vua tập thể ” thấm nhuần tư tưởng cực kỳ quan trọng này, nên bao năm ròng chỉ thấy “Vua tập thể ” trả ơn đấng sinh thành bằng hành động dùng công an quân đội và ngầm kết hợp hợp cả xã hội đen cướp đất Dân, bịt miệng Dân).Nhà thơ Trần Mạnh Hảo lên diễn đàn chất vấn : nhà văn đâu phải con gà con vịt mà Đảng khi thì trói, khi thì cởi trói, rồi lại trói trở lại, bằng chứng nóng hổi là vụ khai trừ cách chức cắt lương hai cán bộ chủ chốt của Hội Văn Nghệ Lâm Đồng -.nhà thơ Bùi Minh Quốc và nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự  – chỉ vì đi lấy chữ ký đòi đổi mới triệt để, không đổi mới nửa vời, đòi chấm dứt tình trạng lời nói không đi đôi với việc làm. Nhà văn Trần Thùy Mai lên diễn đàn tập trung nói (trong nước mắt uất ức) về vụ kỷ luật phi lý nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và yêu cầu Đảng phải tôn trọng tính độc lập về tổ chức của các hội đoàn (như chính nghị quyết trung ương 6 khoá 6 đã đề ra; đến đại hôi 5 họp tháng 3 năm 1995, nhà thơ Trần Mạnh Hảo cùng các nhà văn Hoàng Minh Tường, Hoàng Bình Trọng vẫn kiên trì tiếp tục nhắc lại vụ này).Liên tiếp dậy lên những tràng vỗ tay rầm rộ dành cho những tiếng nói mạnh mẽ của lương tri lần đầu tiên cất lên tại một đại hội của Hội nhà văn Việt Nam.Rồi nhà văn Bửu Tiến lên diễn đàn xin lỗi anh em nhóm Nhân văn – Giai phẩm vì ông đã tham gia viết bài “đánh” Nhân văn. Ông thành tâm bộc bạch : Tôi đã cao tuổi, tôi phải nói lên được những lời này trên chính diễn đàn này cho được nhẹ lòng khi nhắm mắt xuôi tay…Rồi một sự kiện đặc biêt : Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, phó trưởng Ban Văn hoá Văn nghệ trung ương lên diễn đàn với bài phát biểu của trưởng ban Trần Độ vì vắng mặt nên ủy nhiệm cho ông đọc.Hơn một lần bài phát biểu của Trưởng ban Trần Độ bị ngắt quãng bởi những tràng vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt và kết thúc với một tràng vỗ tay dài nhất, vang động nhất.Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh nói lớn : “Tôi thấy tại đại hội này hiện ra sự thức tỉnh lương tri của một bộ phận dân tộc ta, bộ phận tinh hoa của dân tộc, là các nhà văn chúng ta !”.

Sự thức tỉnh của lương tri dân tộc biểu thị qua các nhà văn, tại đại hội của Hội nhà văn vốn bao lâu đã trở thành chốn ngủ lịm của lương tri  ! Thật là một tín hiệu đáng mừng, lại càng đặc biệt đáng chú ý là xuất hiện không lâu sau khi“Vua tập thể ” đàn áp lực lượng đổi mới bằng biện pháp buộc nhà văn Nguyên Ngọc thôi giữ chức Tổng biên tập báo Văn Nghệ tờ báo đi đầu trong đổi mới, đồng thời khéo léo vô hiệu hoá Trưởng ban Trần Độ bằng thủ đoạn sáp nhập Ban Văn hoá Văn nghệ vào Ban Tuyên huấn trung ương.

Sự thức tỉnh của lương tri tại đại hội 4 đã đạt được một kết quả quan trọng : xác định Hội nhà văn Việt Nam là tổ chức xã hội nghề nghiệp chứ không phải tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, đồng thời (lẳng lặng) bãi bỏ nguyên tắc “văn nghệ phục vụ chính trị”.

Nhưng từ sau đại hội 4, sự thức tỉnh của lương tri trong Hội nhà văn Việt Nam mạnh lên hay lịm dần đi ?

Đại hội 5 trở lại xác định Hội nhà văn Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp và đến nay vẫn thế.Đáp lại các ý kiến đề nghị Hội trở lại là tổ chức xã hội nghề nghiệp như đại hội 4 đã xác định, chủ tịch Hội Hữu Thỉnh cho biết : phải khó khăn lắm ông mới xin cho Hội được là tổ chức chính trị vì tổ chức chính trị được cấp kinh phí cao hơn nhiều các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Nhiều nhà văn hội viên gạo cội tỏ ra phấn hứng về việc đó và bảo nhau : Hữu Thỉnh xin tiền giỏi, nên ủng hộ Hữu Thỉnh làm khoá nữa.Quả nhiên, sau hai khoá 6 và 7, đến đại hội 8 (họp tháng 8.2010) Hữu Thỉnh tiếp tục ngồi ghế chủ tịch thêm khoá thứ ba.Mới đây, tại đại hội của Hội nhà văn Việt Nam khu vực miền Đông Nam Bộ và Đồng Bằng sông Cửu Long họp ở Mỹ Tho hôm 04.05.2015, khi phát biểu về chuẩn bị nhân sự lãnh đạo Hội cho khoá 9, chủ tịch Hữu Thỉnh nêu tấm gương bên Hội Văn Nghệ dân gian : giáo sư Tô Ngọc Thanh đã làm chủ tịch 4 khoá nay ngoài 80 tuổi vẫn đang làm tốt chức trách chủ tịch khoá thứ năm và có thể làm tiếp khoá thứ sáu. Có vẻ Hữu Thỉnh đang chuẩn bị tâm lý cho các hội viên được bầu đi đại hội đại biểu toàn quốc sẵn sàng chấp nhận ông – một người được coi là giỏi xin tiền – làm chủ tịch khoá thứ tư.

Vậy đó, chính trị của Hội nhà văn Việt Nam hiện nay là như thế.

Chưa cần phải là những tinh hoa của dân tộc, chỉ với một lương tri bình thường, cũng đủ thấy rõ rằng nơi đây không còn chút gì của truyền thống VĂN HOÁ CỨU QUỐC – tổ chức tiền thân của Hội nhà văn Việt Nam, không còn chút gì của chính trị yêu nước vì dân, nơi đây không một ai dám khẳng định lập trường chính trị TỔ QUỐC TRÊN HẾT QUYỀN DÂN TRÊN HẾT nữa.

Với một lương tri bình thường cũng đủ thấy rõ rằng : cái tổ chức chính trị này – Hội nhà văn Việt Nam – mà “Vua tập thể ” lấy tiền thuế của dân để chăm nuôi hậu hĩnh là cốt dùng nó làm bệ đỡ cho chiếc ngai quyền lực của mình (hãy nhấp chuột một giây vào mạng mà ngắm cựu Tổng bí thư Nông đức Mạnh ngồi ngai rồng, ông này làm Tổng tới hai khoá đấy).Nhân dân coi đây là tổ chức nô bộc của“Vua tập thể ”, có oan không ?  Với một lương tri bình thường cũng đủ thấy rõ rằng : không oan !

Với một lương tri bình thường, tha thiết muốn bớt đi một gánh nặng chi phí lớn cho nhà nước (lấy từ tiền dân đóng thuế),  tại đại hội 8 (tháng 8 năm 2010) có 28 nhà văn đứng đầu là giáo sư Nguyễn Huệ Chi ( tiếp theo là các nhà văn Lại Nguyên Ân, Trần Nhương, Trần Thùy Mai, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Hà, Nguyễn Khắc Phê, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ, Bùi Minh Quốc, Ngô Minh, Đoàn Tử Huyến, Võ Văn Trực, Võ Thị Hảo, Trần Kỳ Trung, Dư Thị Hoàn, Trịnh Hoài Giang, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Đắc Xuân, Cao Duy Thảo, Trần Công Tấn, Nguyễn Võ Lệ Hà, Hoàng Tiến, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Lập, Trần Ninh Hồ, Thái Thăng Long) đã cùng nhau ký kiến nghị yêu cầu đại hội quyết định dứt khoát rời bỏ cơ chế bao cấp, chuyển từ hội xin tiền nhà nước thành hội tự nuôi tự quản. Báo Văn Nghệ khăng khăng nhất định không chịu đưa thông tin cực kỳ quan trọng này mặc dù hai nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Bùi Minh Quốc nhiều lần gặp trực tiếp tổng biên tập Nguyễn Trí Huân yêu cầu đăng.

Chỉ với một lương tri bình thường, các đảng viên hội viên HNVVN Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế., Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế., Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế., Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội đã tham gia ký thư ngỏ của 61 đảng viên phản đối đường lối cách mạng XHCN, khẳng định lập trường cách mạng dân tộc dân chủ của mình.

Chỉ với một lương tri bình thường, giờ đây các hội viên HNVVN hẳn phải thấy rõ rằng “Vua tập thể ”đang lôi cả cái đảng cầm quyền này cùng các tổ chức nô bộc của nó vào một cuộc tự sát về chính trị và văn hoá.

Chỉ với một lương tri bình thường, giờ đây các hội viên HNVVN hẳn phải thấy rõ rằng mình đang lâm vào cảnh nếu giữ tư cách hội viên thì mất tư cách của người cầm bút có lương tri.

Đã đến lúc các hội viên HNVVN phải dứt khoát chọn chỗ đứng của lương tri hay chỗ ngồi của trí ngủ (thực ra phần lớn là giả vờ ngủ) !

Đà Lạt 07.06.2015

Bùi Minh Quốc

(Blog Nguyễn Tường Thụy)

Thắng lợi vĩ đại của quân và dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước được ví như một cuộc “chiến đấu thần kỳ” và trở thành biểu tượng của
lương tri và phẩm giá con người. Mỗi chiến công trong cuộc chiến đấu ấy là một kỳ
tích. “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” 40 năm trước là một chiến công như thế
- tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Đại tướng Phùng Quang Thanh

Điều làm nên một quân nhân, là phẩm chất suy nghĩ độc lập
biết lĩnh hội sức mạnh phản chiếu từ nhiều tấm gương lịch sử.
Gerhard von Scharnhorst


1. Tập san quân đội Pháp


Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy.

Không ngẫu nhiên mà vào thời hoàng kim của đế chế Pháp, đầu thế kỷ 19, Journal Militaire dầy 800 trang đậm đặc các tranh luận học thuật về đạn đạo, cự ly, cách vẽ xạ bảng hay phân bố đại bác trên trận địa… Pháo binh, là một vũ khí mới ở thời kỳ này. Trung pháo 75 ly là vũ khí xương sống làm nên sức mạnh của quân đội Pháp.

Từ giữa thế kỷ 19, Journal Militaire đổi tên thành Journal Militaire Officiel [Tập san Quân đội Chánh thức] mất dần đi chất học thuật, số trang mỏng đi và thay vào các chủ đề Hướng dẫn Tác xạ [Instructions du Tir] là những huấn thị của Bộ Quốc phòng, rồi danh sách các sĩ quan được thăng thưởng phía sau. Tính chất tuân thủ nhiều thêm, cùng lúc tính kỹ thuật giảm đi, và, một cách trùng hợp, quân đội Pháp suy yếu.

Khi chiến tranh tái diễn, các hậu duệ của Nã Phá Luân nhanh chóng thảm bại. Tuy quân số đông hơn và các chiến xa nặng Renault B1 được bọc thép dầy hơn, nhiều hơn, so với kẻ thù truyền kiếp là quân Đức, quân Pháp vẫn phải đầu hàng. Các sử gia đều đồng thuận khi phán quyết: Học thuyết chiến tranh của Pháp lỗi thời là nguyên nhân chính. Lấy vận tốc hành binh dựa trên bước chân bộ binh trong Thế chiến thứ nhất làm chuẩn, các tướng lãnh Pháp không theo kịp vận tốc động cơ của quân Đức. Vắn tắt, tụt hậu tư duy so với thời đại.

Journal Militaire Officiel trưng bày những tụt hậu này.

Khác tập san quân đội Đức đương thời tràn ngập các tiểu luận mổ xẻ ưu khuyết điểm giữa hai học phái quân sự đối nghịch, giữa Clausewitz Phổ và Antoine-Henri de Jomini từng làm tham mưu cho Nã Phá Luân, các khảo luận trên tập san quân đội Pháp về những trận đánh xưa cũ Marengo, Ulm, Austerlitz, Jena, Wagram thiên về ca ngợi thiên tài của Nã Phá Luân, hoặc, ca ngợi công trạng của Pétain và Foch khi viết về những trận đánh gần hơn nhưng không đúc kết, không đề xuất chiến lược mới. Một góc cạnh khác: Clausewitz gần như vắng bóng trên Journal Militaire Officiel, trong lúc Clausewitz đã trở thành bậc thầy tư duy của Bộ Tổng Tham mưu Đức. Các quân nhân Pháp sở hữu duy nhất một bản dịch Clausewitz của trung tá de Vatry xuất bản năm 1866 bị xem là rối rắm đầy lỗi. Cho đến bản dịch thứ nhì của Denise Naville in năm 1955, không có bản hiệu đính, chú giải hay diễn dịch nào khác. Không phân tích kẻ thù suy nghĩ gì nên không hiểu học thuyết chiến tranh của kẻ thù, là khiếm khuyết lớn nhất của quân đội Pháp. Khiếm khuyết càng nặng nề vì Moltke kế thừa Clausewitz, Schlieffen kế thừa Moltke và Manstein tiếp nối truyền thống. Chính các thống chế Đức kể trên tiêu hủy nền Đệ nhị rồi Đệ tam Cộng hòa Pháp.

Không phải đã không có những cố gắng cập nhật. Một vài trường hợp lẻ loi, như thiếu tá Henri Navarre thuộc Phòng Nhì, từ 1938 đến 1939 cho phiên dịch và đăng tải một số lý thuyết chiến xa của Guderian nhưng đã quá muộn, chiến tranh đã áp sát. Trước đó, trong một nỗ lực cá nhân về sau được xem là viễn kiến, trung tá de Gaulle yêu sách tái cơ cấu và cơ khí hóa tức khắc quân đội Pháp: thay vì phân tán các thiết đoàn thành những đơn vị độc lập làm nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho bộ binh, cần tập trung chiến xa thành lập những sư đoàn thiết giáp làm nên mũi nhọn kỵ binh. Tiếng nói của de Gaulle lạc lõng trên mặt báo ưu tiên cho những trang về quy chế hưu bổng, cấp dưỡng, và chìm dưới các huấn lệnh của Weygand, Gamelin là những đại tướng của chiến tranh quá khứ. Tiểu luận Hướng về Quân đội Nhà nghề [Vers l’Armée de Métier] của de Gaulle không gây tiếng vang, không tạo ra tranh luận, ít tác động, vì hầu hết các tác giả viết bài trên Journal Militaire Officiel là những sĩ quan cao tuổi, quyền chức, trung thành với đường lối suy nghĩ của các thống chế Pétain, Joffre, Foch. Khái niệm “Vận tốc tương đương với hỏa lực” của de Gaulle, xa lạ đối với họ.

Có thể viết: Tập san quân đội Pháp vào nửa đầu thế kỷ 19 mang sức mạnh chinh phạt của quân đội Pháp; đến nửa đầu thế kỷ 20 phản ảnh tính cách hoài niệm thụ động của quân đội này. Tuy vinh danh Nã Phá Luân, nhưng quân đội Pháp không kế thừa vị hoàng đế. Thiếu tá Henri Navarre, mà về sau trở thành Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Đông Dương, không biết đến những phê phán kịch liệt của Moltke đối với tính hữu dụng của những pháo đài cố định. Nếu đã biết, Navarre sẽ, hay không xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ? Navarre biểu trưng cho giai cấp tướng lãnh quên đi lời dặn của Nã Phá Luân: “Một trong hai đối thủ, kẻ nào ngồi lại trong giao thông hào, kẻ đó bị tiêu diệt.” Điện Biên Phủ, chính là cánh tay nối dài của chiến lũy Maginot đã bất lực trước các xa đoàn Panzer của Guderian. Điện Biên Phủ sẽ bất lực trước Việt Minh.

Hôm nay khi sùng bái các chiến thắng anh hùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các tạp chí Quốc phòng Toàn dân, Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân Việt Nam khá giống với tập san Quân đội Pháp vào thời kỳ suy vi: Say sưa với Nã Phá Luân mà quên đi học thuật, trống vắng dự phóng vào tương lai, cùng lúc tránh né uy hiếp hiện tại. Càng giống ở tính chính thống lặp lại tư duy độc nhất của thượng tầng lãnh đạo quân đội. Tiếng nói của các sĩ quan trẻ bị gạt sang bên, như de Gaulle từng bị buộc im tiếng.

 2. Tập san quân đội Đức



Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy.

Giám định này đúng với tập san quân đội Đức. Không ngẫu nhiên mà tập san Militär-Wochenblatt, xuất bản từ 1816 đến 1942, trải qua ba thời kỳ sinh động: Thời gian Moltke rồi Schlieffen làm Tổng Tham mưu trưởng và giai đoạn khi Hitler lên cầm quyền. Cả ba thời kỳ trên, đạt đến sức mạnh tối ưu, quân đội Đức làm nên những chiến thắng sấm sét: Sedan 1870, Tannenberg 1914, Sedan 1940, Kiev 1941, Sébastopol 1942 và Tobrouk cùng năm. Cũng vẫn trùng hợp như khi Journal Militaire Officiel đánh mất tính chất học thuật thì quân đội Pháp suy yếu, sau khi Militär-Wochenblatt phải đình bản vì bị kiểm duyệt, quân đội Đức đi từ thất bại này sang thất bại khác. Stalingrad, El Alamein, Koursk, Normandie là chuỗi thất trận mà những chiến thắng địa phương Monte Cassino, Kharkhov không thể cứu vãn. Cái chết của quân đội Wehrmacht, tuy vậy, vẫn không ngăn các sử gia đánh giá quân đội này như một đạo quân tiên phong trong nhiều lĩnh vực và giá trị học thuyết chiến tranh Đức tiếp tục được giảng dạy. Tập san quân đội Đức, trước và giữa hai Thế chiến, đóng góp không nhỏ cho sức mạnh trí tuệ của quân đội hoàng gia Deutsches Heer, rồi quân đội Cộng hòa Reichswehr, sau cùng là quân đội Wehrmacht.

Hơn nửa thế kỷ sau, lật bất kỳ những số Militär-Wochenblatt nào in trong khoảng từ 1930 đến 1939 qua bản dịch Pháp văn, người đọc cũng đều choáng ngợp vì tính chất học thuật cao cấp của tuần san này. Đôi khi người đọc bắt gặp những tên tuổi sẽ lừng danh: Erich von Manstein phác thảo chiến lược Phòng ngự Co giãn [Elastische Verteidigung]; Walter Model, một trung tá đang đảm nhiệm giảng dạy môn lịch sử quân sự ở Bộ Quốc phòng đề xuất lập những Chiến đoàn Liên Binh chủng [Kampfgruppen] bên trong hệ thống sư đoàn mà về sau được Hoa Kỳ cấu trúc thành những Brigade Combat Team và tướng Jean de Lattre áp dụng xây dựng những Binh đoàn Lưu động trên chiến trường Đông Dương. Sang phần hồi ký, một đại úy khiêm tốn, Erwin Rommel khởi đăng những chương trong tập Bộ binh Tấn công [Infanterie greift an]. Đến phần dich thuật, Guderian giới thiệu những lý thuyết cấp tiến Anh-Pháp của John Frederick Charles Fuller, Basil Liddell Hart và Charles de Gaulle. Vẫn chính Guderian sẽ tổng hợp các bài viết lý thuyết của mình làm nền cho binh chủng thiết giáp Đức dưới tựa Achtung Panzer! Không duy nhất dành riêng cho các sĩ quan Lục quân, Militär-Wochenblatt đăng tải nhiều nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh [U-bootswaffe und U-Bootkrieg] của đại tá hải quân Hugo von Waldeyer-Hartz và trung tá hải quân Karl Dönitz, bên cạnh các phân tích chiến thuật oanh kích đâm bổ của phóng pháo cơ Junkers 87 Stuka qua ngòi viết của trung tá Heinz Greiner và thiếu tá Braun. Nổi bật trên nhiều số báo là tranh luận giữa trung tướng pháo binh Ludwig Ritter von Eimannsberger và trung tá Heinz Guderian về học thuyết chiến xa. Với Guderian, nếu phải hành binh vì mục đích gì, toàn Xa đoàn Panzergruppe cùng hành quân tấn công mục tiêu ấy mà không nên phân tán từng đơn vị. Von Manstein thêm vào tranh luận này một tiên đề khác: Một quân đoàn thiết giáp Panzerkorps chỉ an toàn cạnh sườn một khi di chuyển liên tục khiến đối phương không bắt kịp vận tốc hành binh. Hai tiên đề trên gộp lại làm nên nguyên nhân thất trận của quân đội Pháp trên chiến trường Sedan tháng 5-1940. Von Manstein, Rommel, Model, Dönitz, Guderian là những gương mặt hoàn toàn vô danh khi ấy, và trừ von Manstein, hầu hết giữ những chức vụ thấp không quyền quyết định. Nhưng chính họ phô bày sức mạnh tri thức của quân đội Wehrmacht.

Đặc điểm của Militär-Wochenblatt là qua tiêu chí “Tuyển chọn các đề xuất quân sự khả thi do các sĩ quan trẻ đóng góp” đã tiếp nối một truyền thống có từ Moltke và Schlieffen. Một truyền thống xem tập san quân đội phải là diễn đàn của giai cấp sĩ quan trung cấp, nơi trao đổi những tư duy quân sự mới mẻ, chưa chính quy hóa, để từ đây Bộ Tổng Tham mưu quy nạp những phát kiến từ hạ tầng không thông qua hệ thống quân giai. Militär-Wochenblatt tuân thủ các yêu sách của Moltke: đặt việc nghiên cứu lịch sử chiến tranh trên mặt bằng sự thật làm tâm điểm phát triển tri thức quân sự của quân nhân, với điều kiện – phải xây dựng những chiến thuật thích ứng làm nền cho chiến lược mới; nếu không, việc nghiên cứu chỉ thỏa mãn duy nhất hành động thưởng ngoạn. Trong nhãn quan của Moltke, chính sức mạnh tri thức của một tập thể sĩ quan ưu tú tạo ra chiến pháp tinh vi và vũ khí tương ứng. Trước vũ khí tân kỳ uy hiếp của đối phương, cũng chính sức mạnh này tìm ra kế sách phòng ngự. Nếu một tri thức cần phô diễn và tranh luận, thì một tập san quân đội phải làm phương tiện truyền bá và kho trữ liệu đóng góp cho tri thức ấy. Tập san quân đội Đức không ra ngoài đề cương này.

Các tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tạp chí Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngược lại, không chú trọng chức năng trí tuệ này.

 3. Tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tạp chí Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân


Bước sang thế kỷ 21, học thuyết Chiến tranh Nhân dân xây dựng trên lý thuyết của Mao và nguyên soái Chu Đức vẫn tiếp tục được đề cao trên báo Quân đội Nhân dân, tuy rất ít phân tích và trống vắng kiểm định. Trong bản đăng ngày 23 tháng 12-2012, sau khi đánh giá “chiến thắng Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không là tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh”, Đại tướng Phó Quân ủy Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh viết: “Lực lượng và thế trận của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, trên hết và hơn hết biểu hiện cho ý chí ngoan cường, dũng cảm, trí tuệ và sức sáng tạo của con người Việt Nam, của nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo, thể hiện trong phương châm chiến lược lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn và thắng địch bằng Mưu, Kế, Thế, Thời.”

Đại tướng Thanh không giải thích thế nào là Mưu, Kế, Thế, Thời và chừng như phương châm “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn” chỉ là khẩu ngữ viết cho tranh cổ động. Trên thực tế chiến trường, Quân đội Nhân dân thường xuyên có khả năng mở đồng loạt nhiều mặt trận từ Quảng Trị lên Pleiku, xuống An Lộc vào Tây Ninh cùng một lúc, tức đông quân và lấy lớn đánh lớn. Ngay trong chiến tranh Việt-Pháp, Quân đội Nhân dân luôn dụng nhiều đánh ít.

Trận Đông Khê tháng 9 năm 1950, Tổng bộ Việt Minh dùng hai trung đoàn chủ lực 174 và 209 đánh hai đại đội Lê dương của tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 Lê dương [II/3e REI] dưới quyền đại úy Allioux có cấp số 250 binh sĩ. Chưa tính đến trung đoàn Sông Lô 209 của Lê Trọng Tấn, chỉ riêng trung đoàn 174 Cao-Bắc-Lạng đã đông gấp 20 lần quân Pháp. Trong hồi ký Người lính già Đặng Văn Việt, Chiến sĩ Đường số 4 Anh hùng, Nxb Trẻ 2003, cựu trung tá Đặng Văn Việt “hùm xám đường biên giới”, là trung đoàn trưởng trung đoàn 174 trong trận này, ở trang 149 ghi rõ: “Thế và lực giữa ta và địch đã thay đổi. Để đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Bộ Tổng Tư lệnh và Trung ương Đảng cho thành lập hai trung đoàn mạnh – hai đơn vị chủ lực mạnh đầu tiên của của quân đội ta: E174 – E209. E174: Lập nên bởi các lực lượng tinh nhuệ của ba trung đoàn địa phương ba tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Quân số lên đến 5.500 (gần một lữ) gồm 6 tiểu đoàn: 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh (6 khẩu pháo 75 ly), 1 tiểu đoàn cao xạ (12 khẩu 12,7 ly), 1 đại đội trợ chiến (6 cối 81 ly, 6 súng không giật 75 ly), 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh, 1 đại đội thông tin liên lạc, 1 đại đội cảnh vệ. Chỉ huy: Đặng Văn Việt – trung đoàn trưởng, Chu Huy Mân – chính ủy.”

Trận đồi Him Lam (đồi Béatrice) chiều 13 tháng 3-1954, hai trung đoàn 209 và 141 tràn ngập tiểu đoàn 3 của Bán Lữ đoàn 13 Lê dương [III/13e DBLE] dưới quyền thiếu tá Paul Pégot có quân số 450 binh sĩ. Không ngẫu nhiên phương Tây luôn nhìn huyền thoại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp song hành với chiến thuận biển người. Đại tá Pierre Rocolle trong luận án Vì sao Điện Biên Phủ [Pourquoi Dien Bien Phu, Nxb Flammarion,1968] mô tả chiến thuật này: “Theo những tiêu chuẩn của chiến thuật Việt Minh, tấn công một cứ điểm, cần tập trung nỗ lực trên một trận địa thật thâu hẹp (vào chừng vài trăm thước) hầu đánh thủng hệ thống phòng thủ tại một điểm. Tất nhiên cần lượng lớn súng cối và đại bác bộ binh đối diện khu vực tấn công, đồng thời tập trung các đơn vị được chỉ định xung phong đông từ 10 đến 20 lần quân trú phòng trong một hành lang hẹp trên địa thế chọn lựa. Thực hiện đầu tiên một xé rào rồi nới rộng dần bằng cách tung những làn sóng tiến công tiếp theo cho đến khi trọn chu vi phòng thủ đối phương bị tràn ngập.” (trang 348)

Như thế, phương châm chiến lược “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn” của “nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo” mà đại tướng Phùng Quang Thanh ca ngợi, ít tính khả tín. Càng thêm khó hiểu khi đại tướng nhấn mạnh: tạo thế trận liên hoàn của “chiến tranh nhân dân đất đối không, đất đối biển”. Hôm nay trước uy hiếp của Hải quân Trung Quốc, dân Việt không khỏi băn khoăn làm cách nào dân miền Trung cách Trường Sa 248 hải lý có thể lấy đất ruộng đương đầu với hạm đội thủy chiến Trung Hoa, đặc biệt đương đầu với hàng không mẫu hạm Liêu Ninh mà chắc chắn Trường Sa sẽ là mục tiêu oanh kích? Chiến tranh Nhân dân, từng là học thuyết quân sự chánh thức trong quá khứ, cáo chung trên biển Đông. Ngay cả trong quá khứ, học thuyết này mang những giới hạn, vì ẩn vào dân khi yếu, dùng tai mắt dân quan sát, lấy thóc dân nuôi binh và dùng sức dân vận chuyển… không giúp ích cho một đạo quân tác chiến độc lập tách rời dân chúng. Như khi hành quân ngoại biên, Quân đội Nhân dân không bình định được Campuchia trong 10 năm chiếm đóng, chính vì dân xứ Khmer không theo. Trên mặt biển, các hải đoàn Việt Nam hoàn toàn cô độc trước hải lực hùng hậu của Trung Hoa.

Cập nhật học thuyết chiến tranh của quân đội trở nên cấp thiết.

Càng cấp bách khi chiến tranh có thể nổ ra bất kỳ lúc nào, một khi chính phủ đương quyền quyết định cương quyết trước Bắc Kinh. Cương quyết, đòi hỏi chuẩn bị chiến tranh. Nhưng nhìn vào báo Quân đội Nhân dân, đọc trên tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tạp chí Lịch sử quân sự thuộc Bộ Quốc phòng, dân chúng không thấy bất kỳ một thảo luận nào về phương thức đối phó khi xung đột bùng nổ. Không tranh luận về tình hình quân sự, không thảo luận sự kiện Giàn khoan, không nghiên cứu học thuật thế giới, không phân tích chiến lược Bắc Kinh, không dịch thuật binh pháp, không tìm hiểu chiến thuật hiện đại của Giải Phóng quân Trung Quốc, cũng không đề xuất phương cách phòng ngự… là đặc điểm của các tạp chí quân sự và báo quân đội của đất nước.


Một cách vô tình hay hữu ý, các báo quân đội chính thức của quốc gia rơi vào thường thức, đặt trọng tâm phổ biến các nghị quyết Đảng, rồi tường thuật các chuyến viếng thăm của lãnh đạo thượng tầng với vài văn bản tuyên dương công trạng chống Mỹ, bên cạnh là những thông tin thời sự xã hội, du lịch biển đảo, bận tâm kinh tế và giải trí thể thao, văn nghệ. Hình ảnh của các hoa hậu hoàn vũ hay siêu mẫu áo tắm càng làm người đọc thêm băn khoăn. Dân chúng hiểu, một quân nhân vẫn là một người đàn ông có nhu cầu nhìn ngắm da thịt phụ nữ, nhưng vì sao các phòng đọc sách của các trung đoàn không lưu hành các tạp chí đời thường cho các quân nhân muốn tìm hiểu thời trang mà phải dùng ngân quỹ quốc phòng do dân góp thuế cho nhu cầu này? Các tiết mục “văn hóa” này làm xa cách chức năng trí tuệ mà Moltke đòi hỏi.

Có thể phủ định: mỗi quân đội của mỗi quốc gia mang một đặc thù và mỗi tập san quân sự có một hình thái riêng. Không thể lấy chức năng của tập san này làm chuẩn cho tập san kia, không thể dùng Clausewitz và Moltke áp đặt lên hệ thống suy nghĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp tạo lập. Phủ định này không sai – nếu tạp chí Quốc phòng Toàn dân và báo Quân Đội Nhân dân có những đặc tính khác biệt và tư duy khác lạ so với các tập san và báo quân đội thế giới. Phủ định này – trở nên dễ dãi – như cách nhìn ưu điểm ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên Hoàng Văn Thái là đã không qua hàn lâm viện nào. Tiểu sử Đại tướng Hoàng Văn Thái ghi: “Tháng 3 năm 1945, ông chỉ huy nhóm đội viên, khi đó đã phát triển lên đến hơn 100 người, tiến về xây dựng cơ sở ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Ngày 7 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Bộ Tham mưu và chỉ định Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng.” Với kinh nghiệm trận mạc duy nhất từ chỉ huy đội viên sau 6 tháng lên làm Tham mưu trưởng mà Hoàng Văn Thái vẫn tham mưu cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chiến thắng lẫy lừng trận Điện Biên Phủ, thì lập luận không cần Moltke hay Clausewitz vẫn chiến thắng là không sai; nhưng lập luận ấy phải giải thích những tranh công của La Quý Ba, Trần Canh, Vy Quốc Thanh, là những cố vấn Trung Hoa đã khẳng định chiến thắng Biên giới và Điện Biên Phủ do một tay họ quyết định, lên sách lược, đề xuất và được Hồ Chí Minh chuẩn thuận. Có phải vì bề dầy trận mạc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái quá mỏng khiến Hồ Chí Minh phải viết thư xin Mao Chủ tịch chi viện các tướng lĩnh tài năng nhất làm cố vấn cho quân đội Việt Minh? Ít nhất, khi Vy Quốc Thanh phê phán khai trận ở đồng bằng châu thổ sông Hồng của Tổng bộ Việt Minh là sai lầm, nên đánh lên miền Thái nơi quân Pháp ít quân, Vy Quốc Thanh đã tuân theo binh pháp Tôn Tử: Đánh vào khoảng trống! Thất bại đẫm máu ở Vĩnh Yên, Đông Triều, Mao Trạch, Mạo Khê, Sông Đáy, Ninh Bình năm 1951 không làm tăng thêm thiên tài của tướng Giáp mà tôn vinh hổ tướng de Lattre, và, một cách gián tiếp, chứng thực luận cứ của Vy Quốc Thanh.

Có thể biện luận cách khác: Không thể viết ra hết suy nghĩ chiến lược của sĩ quan Việt Nam trên tạp chí Quốc phòng Toàn dân và báo Quân đội Nhân dân, vì như thế sẽ lộ bí mật quốc phòng và Bắc Kinh sẽ thấu rõ quyết sách của Việt Nam. Lập luận trên có thể đúng, tuy kiểm duyệt triệt tiêu phần lớn tính sáng tạo của quân nhân và phát kiến hạ tầng không nhất thiết phản ảnh sách lược chính quy. Tập san quân đội Đức từng bị kiểm duyệt hai lần: Lần thứ nhất vào năm 1848, Militär-Wochenblatt phải chuyển sang đăng tải những chuyên luận khoa học để không vi phạm luật bảo vệ bí mật quốc phòng. Trong hai thập niên liền quân đội Đức giẫm chân trong học thuyết. Đến 1866, Hoàng đế Wilhelm Friedrich Ludwig quyết định trả lại cho Militär-Wochenblatt chức năng nguyên thủy: chức năng khai phá quân sự. Từ đây, dưới ảnh hưởng của Moltke, tập san quân đội Đức chuyển mình, đến 1904 trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu thay vì Bộ Quốc phòng. Đến 1942, Dr Paul Joseph Goebbels, quyền tương đương với chức Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, ra lệnh kiểm duyệt vì Martin Bormann, Chánh Văn phòng Trợ lý Quốc trưởng, nhân vật quyền lực số 2 ngay sau Hitler, nghi ngờ Bộ Tổng Tham mưu âm mưu đảo chánh. Tập san quân đội Đức hiện diện từ 1816 quyết định đình bản. Đình bản thay vì chịu kiểm duyệt, để giữ độc lập tinh thần và danh dự quân nhân. Lập luận gìn giữ bí mật quốc phòng trước đôi mắt Bắc Kinh đứng vững – nếu – tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tạp chí Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân biết thôi thúc tri thức quân sự Việt Nam bằng cách khác: nghiên cứu chiến tranh Việt-Pháp trên mặt bằng sự thật gạt bỏ tuyên truyền; nghiên cứu các canh tân quân đội thế giới và đặc biệt nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh, là vũ khí của kẻ yếu như Dönitz nhìn thấy ngay từ đầu.

Các chủ đề trên, ít kỵ húy, ít vi phạm vùng cấm, ít đụng chạm bài vị thiêng liêng của các gia đình đương quyền, là cánh cửa rộng mở cho tri thức quân nhân Việt Nam đang phải đối diện với quân Tàu đã chiếm ngự biển.

Vì sao phải nghiên cứu chiến tranh Việt-Pháp quá xưa cũ khi hôm nay vũ khí hiện đại thay đổi hẳn diện mạo chiến tranh? Vì một khi chưa chấp nhận các thất bại đẫm máu thì Quân đội Nhân dân còn rơi chìm vào chủ nghĩa anh hùng lạc quan. Cần phân tích minh bạch những sai lầm phạm phải và ghi lại những tổn thất thật sự để giúp tập thể quân nhân rộng lớn có cái nhìn trung thực về hiệu năng của quân đội mình. Thiếu xác tín trận địa, các sĩ quan tham mưu không thể lượng định đúng mức chiến quả và càng nguy hiểm khi tạo ra ảo tưởng ở các đơn vị tác chiến. Vô vàn các chủ đề nghiên cứu cho báo quân đội: như trận công đồn Phủ Thông Hóa không thành công hay trận đánh công kiên Xóm Pheo của trung đoàn 102 là trung đoàn Thủ đô của đại đoàn 308 để lại 800 xác chết mà không tiêu diệt được đồn, hoặc thất bại hoàn toàn của trận Mạo Khê mà chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở trang 170, dòng thứ 2, trong tập Đường tới Điện Biên Phủ, phải viết: “Ngày 5 tháng 4 năm 1951 chiến dịch Hoàng Hoa Thám kết thúc. Chiến dịch để lại cho tôi một ấn tượng nặng nề.”

Nếu nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh là thiết yếu, cũng cần nghiên cứu kỹ lưỡng thiên tài quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà không duy nhất tự bằng lòng với chiến thắng Điện Biên. “Người anh cả của quân đội” chịu ảnh hưởng của Clausewitz đến mức nào và để lại tư tưởng quân sự gì cho hôm nay? Nghệ thuật hành binh của Đại tướng khác ra sao với Nghệ thuật Hành binh [L’Art opératif] của Thống chế Nga Mikhaïl Nikolaïevitch Toukhatchevski rất có ảnh hưởng với những sĩ quan Sô-viết nhiệt huyết như Joukov, Vassilievski, Koniev hay Rokossovski?

Võ Nguyên Giáp là tướng lãnh hiếm của Quân đội Nhân dân trích dẫn Clausewitz. Không trong bản Việt ngữ của hồi ký Chiến đấu trong vòng vây, nhưng trong bản Pháp văn của hồi ký này: Mémoires, tome 1, La Résistance Encerclée, Editions Anako, Fontenay-sous-bois, 2003. Ở trang 105, Đại tướng cho biết ông đem theo bản dịch Clausewitz của Denise Naville khi rời Hà Nội lên Việt-Bắc kháng chiến đầu năm 1947. Ông khẳng định đã suy nghiệm Clausewitz. Các trích đoạn dẫn chứng Clausewitz của Đại tướng đều trích từ bản dịch của Denise Naville. Tuy nhiên, bản dịch của Denise Naville do nhà Minuit ấn hành, mãi đến năm 1955 mới xuất bản. Đa phần, đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ biết đến Clausewitz sau khi vào tiếp quản Hà Nội, do vậy ông không thể áp dụng trước đó. Hoặc áp dụng “thông thoáng”, vì bản dịch trước của trung tá de Vatry xuất bản 1866 bị giới nghiên cứu Pháp đánh giá dịch tối tăm và dịch sai các từ học thuật của Clausewitz. Bản dịch này cũng tuyệt bản từ rất lâu. Ở địa vị của Đại tướng, vì sao Đại tướng không khẳng quyết: “Tôi không cần biết đến Clausewitz của phương Tây, vẫn chiến thắng.” Vì sao Đại tướng phải cố gắng chứng minh ông am tường Clausewitz? Vì cần thuyết phục rằng các quyết định của ông đến từ suy nghiệm Clausewitz mà không từ đề xuất của cố vấn Vy Quốc Thanh? Phương châm “đánh chậm, đánh chắc, chắc thắng mới đánh” của Đại tướng cũng khá gần với phương châm: “Không bao giờ tác chiến nếu cơ may quá mỏng (Ne jamais se battre si les chances sont trop minces)” của tướng Thomas Jonathan Jackson trong nội chiến Nam-Bắc Mỹ.

Nếu không thể nghiên cứu Võ Nguyên Giáp giữa huyền thoại và thiên tài vì chạm đến bia mộ của người quá cố, vì bia mộ này gắn liền với ước mơ cầu an của Đại tướng sau khi chứng kiến cái chết của Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ do thanh trừng của Mao, nên cần thông cảm, thì tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tạp chí Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân vẫn có thể nghiên cứu trường hợp tiểu quốc của các quốc gia Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Phần Lan… là những tiểu quốc nằm cạnh các đế quốc. Tiệp Khắc đầu hàng Đức, Hung Gia Lợi chọn làm chư hầu rồi lầm than theo thăng trầm của quân đội Đức, cho đến khi cả Tiệp Khắc và Hung Gia Lợi đều bị Hồng quân Sô-viết chiếm đóng. Ngược lại, quân đội Phần Lan đã tử chiến đến cùng trước tham vọng lấn đất của Staline, buộc Staline phải chấp nhận đình chiến vì hiểu giá máu phải trả cho mỗi thước đất Phần Lan. Là một bán đảo như Việt Nam, sát cạnh Liên bang Sô-viết và có quá khứ gắn liền với Nga, không được Anh-Pháp-Hoa Kỳ và cả hai vương quốc láng giềng Na Uy và Thụy Điển hỗ trợ, nhưng chính thống chế Carl Gustaf Emil Mannerheim và quân đội Phần Lan đã làm nên sức mạnh phản chiếu từ tấm gương lịch sử mà Scharnhorst đặt để.

Gerhard von Scharnhorst viết: “Điều làm nên một quân nhân, là phẩm chất suy nghĩ độc lập biết lĩnh hội sức mạnh phản chiếu từ nhiều tấm gương lịch sử.” Trên các báo quân đội Việt Nam chỉ có một tấm kính duy nhất sao chép các bản dịch thiếu trung thực của của Hồng quân Nga và những khẩu hiệu “anh hùng” tuyên truyền.

 Hôm nay, trước lấn đất lấn biển đã diễn ra, không dân Việt nào không ưu tư khi nhìn vào báo quân đội của quốc gia. Trước hiểm nguy Hán thuộc kề cận, đã áp sát, đã nhìn thấy, đã chứng kiến trong bất lực sự kiện xâm lược Giàn khoan, dân chúng không thể không đặt câu hỏi: Vì sao phải cần 1 thiếu tướng làm Tổng biên tập tạp chí Quốc phòng Toàn dân (1) với 2 đại tá quyền phó Tổng biên tập; và 1 thiếu tướng với 3 đại tá cùng 1 thượng tá phụ trách biên tập báo Quân đội Nhân dân (2) cho một nội dung không chuyên ngành mà thường thức như trăm báo dân sự khác? Trống vắng tranh luận và hoang vu thao thức càng làm nảy sinh những câu hỏi khác: Vì sao tiếng nói của các sĩ quan trẻ ưu tú đang quan tâm đến tình hình đất nước không được cất lên trên chính diễn đàn của họ? Vì sao những lo lắng cho biển cả của tổ tiên đang bị cướp giật không được hiện diện trên trang Quân chủng Hải quân của chính tập thể đang mang trọng trách bảo vệ vùng biển ấy?

Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy. Nhìn vào tạp chí Quốc phòng Toàn dân và báo Quân đội Nhân dân trông thấy kiểm duyệt. Một kiểm duyệt mang tính tội ác, vì là tội của Lê Chiêu Thống.


Trần Vũ
hiệu đính và cập nhật ngày 21 tháng 05-2015

(Tiền Vệ)

(1) Tạp chí Quốc phòng Toàn dân. Tổng biên tập: Thiếu tướng NGUYỄN MẠNH HÙNG. Phó Tổng biên tập: Đại tá NGUYỄN MẠNH DŨNG; Đại tá ĐỖ HỒNG LÂM

(2) Báo Quân Đội Nhân dân. Tổng biên tập: Thiếu tướng PHẠM VĂN HUẤN. Phó tổng biên tập: Đại tá HÀ MẠNH TƯỜNG, Đại tá PHÙNG KIM LÂN, Thượng tá ĐOÀN XUÂN BỘ. Trưởng phòng biên tập: Đại tá TRỊNH VĂN HÀO

Ông Nguyễn Sự, bí thư Thành ủy Hội An - Ảnh: Hoàng Duy
Ông Nguyễn Sự, bí thư Thành ủy Hội An – Ảnh: Hoàng Duy
Hôm nay cuối tuần, được nghỉ nên có nhiều thời gian để  đọc báo. Có một bài báo đăng trên NLĐ khiến tôi cứ lăn tăn mãi. Ông bí thư thành phố Hội An đã “Bất Ngờ” xin nghỉ hưu sớm dù vẫn đang được mọi người tín nhiệm cao. Té ra quan niệm của nhiều người (có tôi trong đó) rằng chức vụ và quyền hạn của cán bộ xem ra giữ thì dễ mà bỏ thì khó không còn luôn đúng nữa. Đã có những ngoại lệ mà nơi đó con người có tâm và tầm với quê hương không hẳn là hiếm. Chỉ xin phép được nói một câu: “Tôi thực sự kính phục ông cán bộ chân đất và khiêm nhường này”.

Các quan nhà mình nếu ai cũng dám nghĩ, dám làm như ông Sự thì tin chắc nước mình sẽ có nhiều đột biến. Dám nghĩ, dám làm và dám nhận mình sai để sửa sai. Xem quan trường chẳng qua như chiếc lông vũ, nhẹ nhàng thả rơi một cách thanh thản, hoà nhập lại đời thường chẳng vấn những gì được mất. Biết dừng đúng lúc để những người khác làm thay dù khả năng làm việc của mình vẫn còn.
Khi nghe ông Sự tự bạch về những điều mình đã làm được và chưa được, tự nhiên trong tôi lại nhớ lại với những lời tuyên bố và suy nghĩ của các quan chức cao cấp khác:  Lãnh đạo mà có bất tài tham nhũng thì cũng là  do lỗi cơ chế và lỗi  của cả tập thể. Nếu phải chịu trách nhiệm thì chỉ là trách nhiệm chính trị. Còn Quốc hội có quyết sai thì cũng là lỗi của nhân dân, vì dân đã bầu ra mấy ông nghị. Những vụ án oan nếu có thì cứ vô tư mà lấy tiền thuế của dân ra  đền bù. Tóm lại chẳng ai có lỗi cả, chỉ có nhân dân làm chủ là có lỗi thôi. Nghĩ đến mà đau đớn lòng!

Ông Sự ơi, ông không muốn làm một tàu lá chuối (dù đang tươi rói), còn những ông quan khác thì lại xin được làm những tàu lá chuối khô đến muôn đời, đến khi nào đảng không còn phân công, tổ chức không thể sử dụng nữa thì lúc đó “dây chuối khô” này xin làm dây lạt để cột con, cột cháu cũng lợi ích chán.

Đến bao giờ thì những người lãnh đạo đất nước sẽ có được một hành động thật giản dị và dễ thương nhưng đầy dũng cảm, quyết đoán như ông Nguyễn Sự? Dám nghĩ, dám làm, dám từ chức, đồng thời dám nhận những sai sót trong giai đoạn cầm quyền?

Bao giờ cho đến tháng Mười?

N.V.X.
Tác giả gửi BVN

(Bauxitevn)

                                           Thiếu tướng Nguyễn Xuân Tỷ, đại biểu quốc hội.

Đây, nguyên văn ông nói thế này trước Quốc hội: “Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỷ đồng, thậm chí cả ngàn tỷ đồng thì lấy đâu ra nếu không tham nhũng….” Là một công dân hàng ngày hàng giờ đóng thuế nuôi bộ máy công quyền tôi không khỏi không bức xúc. Tôi cũng tin chắc rằng có hàng triệu người người Việt Nam cũng bức xúc, căm phẫn như tôi. Nhưng với cương vị một ĐBQH như ông, tôi nghĩ phát biểu của ông trước diễn đàn Quốc hội (coi như nói cho toàn dân biết) thì phải nên suy xét nhiều khía cạnh cho thấu đáo:

Trước hết, tôi coi phát biểu của ông là nghiêm túc, có trách nhiệm. Phát biểu của ông được hiểu thắng thắn là (tôi không suy diễn): Có một ông (ít nhất là một) cán bộ X nào đó (cán bộ trong bộ máy công quyền nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay), mà ông biết rất rõ, nhờ tham ô, trong vài ba năm có tài sản lên đến hàng trăm tỷ đồng (ĐVN) .

Với cương vị ĐBQH, một vị thiếu tướng quân đội đất Đồng Khởi Bến Tre tôi tin chắc rằng ông biết rõ con sâu bự mà ông vừa phát biểu là ai, mặt ngang mũi dọc ra sao ông nắm rất rõ. Ông không phải là loại người nói khơi khơi mà không có căn cứ. Tôi xin phép nhấn mạnh thêm yếu tố này một chút:

Như ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chỉ nói một bầy sâu chung chung, là ý ông nói quốc nạn tham nhũng đang lan tràn, không có ý quy kết một cá nhân nào cả. Ý ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng vậy, ông chỉ ví von chuột với bình thôi. Còn chuột nào, bình nào không ai bắt ông phải liệt kê ra cụ thể trong bình có bao nhiêu con chuột, đại ý là rất nhiều. Nhưng phát biểu của ông rất cụ thể: Có yếu tố con người (làm cán bộ) có yếu tố thời gian (vài ba năm) có số liệu cụ thể (vài ba trăm tỷ đồng), có nội dung cụ thể tố cáo (tham nhũng) . Chỉ còn thiếu một điều ông chưa nói là AI?

Nói ngược lại, nếu ông không nói ra con sâu đó là AI thì thực tâm chúng tôi, những người dân, hoàn toàn mất sạch sự tin tưởng vào Đảng và Nhà nước về cái gọi là “chống tham nhũng”. Các ông chỉ hô hào xuông, đến như biết cụ thể mười mươi mà cũng không dám tố cáo.

Nếu ông không chỉ ra là AI, chúng tôi có quyền nghi ngờ ông che dấu tội phạm. Hoặc phát biểu thiếu căn cứ gây mất lòng tin trong nhân dân vào thể chế nhà nước CHXHCN VN, vào sự lãnh đạo anh minh của Đảng CSVN. (Hình như công dân Nguyễn Hữu Vinh, tức Anh Ba Sàm đang bị truy tố về tội này thì phải).

Nào, bây giờ ông thử nghĩ xem, giả sử tôi tin lời ông nói, tôi in một cái áo có dòng chữ đại loại như “cán bộ ăn cắp”, tôi mặc ra đường, thử hỏi an ninh có túm tôi vào đồn hay không? Họ hỏi tôi thế này: Ai ăn cắp? Ở đâu? Có bằng chứng không? Thì nào tôi có biết ai là ai. Tôi nghe ông Nguyễn Xuân Tỷ nói thì tôi bắt chước. Họ sẽ nói OK. Mày ngồi đợi ông Nguyễn Xuân Tỷ đến thanh minh cho mày, còn bây giờ tao lập biên bản mày về tội kích động, vu khống, gây rối trật tự công cộng. Rồi họ lập chuyên án, rồi tôi bị đi tù chí ít vài ba năm. Ông thấy tai hại chưa?

Đấy ông xem, nếu ông không nói ra là AI tôi tin chắc rằng ông Trần Đại Quang với cương vị bộ trưởng BCA không thể không coi lời phát biểu của ông là tin tố giác tội phạm. Ông Ngô Xuân Dụ với cương vị Kiển tra TƯ Đảng không thể coi nhẹ công tác cán bộ đảng viên qua lời phát biểu của ông. Mong ông sớm trả lời trước công luận thằng đó là AI???

TRẦN SƠN

(Dân Luận)


1. Phải nhìn thẳng vào thực tế mà nói rằng thời gian qua, chỉ từ tháng 5 năm ngoái đến nay, Trung Quốc đã khẩn trương, công khai tôn tạo, san lấp, xây dựng được quá nhiều đảo, có những đảo sát đảo do Việt Nam quản lý, trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, ngay trước mũi Việt Nam. Không thể nói Việt Nam không biết hoặc bị bất ngờ. 

Biết, biết ngay từ đầu, nhưng không làm gì được, không vận động được dư luận quốc tế lên án Trung Quốc (như ngày xưa lên án Mỹ) bắt nó dừng, chỉ thể phản đối suông, để sự đã rồi đến vậy, đủ biết nhà cầm quyền xứ này đang ở thế yếu. Đừng mong Trung Quốc nó nể tình láng giềng bè bạn mà nó ngưng. Càng quen càng lèn cho chặt. Sau phép thử bằng giàn khoan Hải Dương-981 thì nó đã bắt thóp được thằng em và dư luận quốc tế. Rồi nó còn lấn tới nữa cho mà xem.

2. Bất kỳ điều gì cũng cần tranh luận, ngay cả cái gọi là chân lý. Nếu đã thực sự có dân chủ thì ý kiến trái chiều là bình thường. Nhiều người thắc mắc, chê cười việc ông thiếu tướng Trịnh Xuyên, ông nhà sư Thích Thanh Quyết, ông nhà báo Hà Minh Huệ... nói khác số đông về dự thảo luật Trưng cầu ý dân, riêng tôi thì không. Phải để cho các ông ấy nói, có quyền biểu đạt suy nghĩ, quan điểm riêng của mình.

Vấn đề cần xem xét ở chỗ tại sao lại phản đối luật Trưng cầu ý dân. Các ông ấy là người có học, há chẳng biết khắp nơi trên thế giới, trưng cầu ý dân là chuyện bình thường, như hít thở khí trời vậy. Và rất tốt, bởi nếu không tốt thì người ta dẹp bỏ lâu rồi. Thấy điều hay mà không làm là không có trí. Thấy điều tốt mà không làm là không có nhân.

Tương tự, ở những quốc gia tiên tiến nhất, thì đa nguyên đa đảng là chuyện bình thường, là động lực giúp cho xã hội tiến bộ, đi lên. Chỉ có nhắm mắt, như đà điểu rúc đầu vào cát mới không thấy điều đó.

Bàn bạc, trao đổi là cần thiết, nhưng nhân loại đã đi những bước dài, kẻ đi sau may mắn có sẵn những kiến thức, kinh nghiệm ấy mà không biết tiếp thu, đem về ứng dụng cho mình để rút ngắn khoảng cách, chỉ thể gọi là ngu xuẩn.

Nguyễn Thông

(Blog Nguyễn Thông)

Tốt nghiệp trường luật năm 1989, tôi trải qua nhiều công việc khác nhau trong ngành luật, sau đó mới tham gia Đoàn Luật sư Sài Gòn năm 1996. Khoảng vài tuần trở thành luật sư tập sự, tôi nhận vụ án hình sự đầu tiên, biện hộ theo sự chỉ định của tòa án (gọi nôm na là ‘cãi chỉ định’), một dạng Pro Bono Work ở các nước Tây phương.

Theo luật, trẻ vị thành niên phạm pháp và bị cáo có khả năng bị truy tố đến mức án chung thân và tử hình phải được luật sư biện hộ dù họ hoặc gia đình không thuê luật sư. Ở Việt Nam thời đó, luật sư thực thụ và luật sư tập sự đều phải đảm nhận các vụ cãi chỉ định như thế. Tất nhiên, luật sư tập sự thường tranh thủ tham gia nhiều hơn để học nghề và nâng cao kỹ năng tranh tụng trước tòa.

Trong vụ án đầu tiên của mình, tôi biện hộ cho một cậu bé 15 tuổi bị cáo buộc hiếp dâm một bé gái 5 tuổi. Cậu bé có vẻ mắc bệnh liên quan đến tâm thần, trông ngờ nghệch khác thường, phần do thiếu ăn, nên hình dáng bên ngoài giống như đứa trẻ tầm 7 tuổi. Cả hai cháu, nạn nhân và bị cáo, đều ngây thơ và đáng thương.

Tôi đọc hồ sơ ở tòa xong, làm thủ tục xin gặp bị cáo tại trại giam Chí Hòa. Khi đang ngồi trong phòng chờ, cậu bé xuất hiện sau cánh cửa, bộ dạng đầy sợ sệt, nép người vào cán bộ quản giáo đứng giám sát gần lối ra vào. Tôi đứng dậy chào thân chủ của mình và tự giới thiệu là luật sư bảo vệ cậu, nhưng cậu bé không hiểu luật sư là ai, thậm chí còn nghi ngờ tôi có thể gây phương hại đến mình. Tôi từ tốn giải thích thế nào là luật sư, lý do tôi đến là để hỏi về hoàn cảnh và sự việc lúc diễn ra hành vi bị cáo buộc hiếp dâm.

Cậu bé hoàn toàn ngơ ngác trước mọi câu hỏi và lời giải thích của tôi. Sau hơn một giờ bất lực thuyết phục thân chủ có chút ý niệm nào đó về mình và ý định của mình, tôi đành ra về, nhưng trong đầu đã định sẵn lập luận biện hộ. Tôi cẩn thận ghi lại ý chính của các lập luận trong một tờ giấy, cùng những trích dẫn từ các bút lục của hồ sơ vụ án.

Diễn biến tại phiên tòa, tuy nhiên, hoàn toàn bất ngờ so với hình dung ban đầu của tôi. Nguyên do chính là vì các thẩm phán thật ra chỉ cần sự hiện diện của luật sư nhằm đáp ứng yêu cầu luật định về biện hộ bắt buộc dành cho trẻ vị thành niên phạm pháp. Mặc cho tôi đề nghị phải giám định tình trạng tâm thần của bị cáo, mà tôi chưa thấy có trong hồ sơ, tòa dứt khoát không chịu dừng buổi thẩm vấn lại và vẫn tiếp tục xét xử.

Tôi liền tỏ thái độ nghi ngờ về những lời khai đó, vì có khả năng cơ quan điều tra viết sẵn rồi ép cậu bé chấp nhận. Do thất học, cậu bé không biết ký tên mình, nên trên tất cả các bản cung đều có dấu hai ngón tay trỏ in vào phần chữ ký của người khai. Với sự ngờ nghệch và hiền lành của bị can, các điều tra viên khôn ngoan không khó đạo diễn mọi tình tiết của hoàn cảnh và hành vi “hiếp dâm” như ghi nhận trong những bản cung. Khi tôi đề nghị điều tra lại, vị thẩm phán chủ tọa thẳng thừng bác bỏ, với lý do “không có cơ sở nghi ngờ công tác điều tra”.Do ngờ nghệch và chẳng hiểu những gì đang diễn ra, cậu bé gật đầu đáp lại mọi câu hỏi thiên về luận tội của hội đồng xét xử, chứ không riêng của công tố viên. Khi tôi phản đối cách đặt câu hỏi theo hướng “suy đoán có tội” của thẩm phán và hội thẩm nhân dân, mà lẽ ra họ phải giữ vai trò trung lập lúc điều hành phiên xử, thì được trả lời rằng họ chỉ hỏi theo những gì bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra căn cứ các bản cung trong hồ sơ vụ án.

Tôi cũng yêu cầu triệu tập nạn nhân, người giám hộ và nhân chứng độc lập (nếu có) tại phiên tòa để chính tôi thẩm vấn về các tình tiết không rõ ràng của vụ án. Tuy nhiên, tòa án đã không làm vậy và cũng không sẵn lòng dừng buổi xét xử để triệu tập họ một cách hợp lệ vào ngày khác. Cuối cùng, với tất cả những thiếu sót về thủ tục tố tụng như thế, tôi đề nghị tòa ra lệnh điều tra lại vụ án, hoặc nếu không phải tuyên bố cậu bé vô tội và trả tự do.

Mọi nỗ lực của tôi tất nhiên trở nên vô dụng và vô vọng, vì hội đồng xét xử hầu như bỏ ngoài tai tất cả lời yêu cầu và trình bày của luật sư. Đây là bài học lớn của tôi ngay khi bước vào nghề “thầy cãi”. Kết quả của “án tại hồ sơ” (tức xét xử chỉ dựa theo kết luận điều tra của công an và cáo trạng của viện kiểm sát) là cậu bé chịu mức án 6 năm tù giam, chỉ vì đã bị cha mẹ của nạn nhân tố cáo sờ soạng con gái của họ trong bối cảnh được mô tả là bị cáo đứng ôm nạn nhân ngồi trên bệ hồ nước phía sân sau nhà, dù quần áo của cả hai vẫn còn mặc nguyên vẹn trên người.

Bước ra khỏi phòng xử án, mặc cho cảm giác buồn rầu từ thất bại ngay trong lần đầu tiên hành nghề luật sư, lòng tôi lại nặng trĩu suy nghĩ làm sao phải thay đổi cách thức điều tra, truy tố và xét xử hình sự của hệ thống này, nếu không sự phỉ báng công lý như vậy vẫn còn diễn ra. Lúc kể lại diễn biến sự việc ở tòa cho một luật sư đàn anh nhiều kinh nghiệm về án hình sự trong đoàn luật sư, tôi nhận được lời an ủi mà nghe xong còn chán hơn: “Luật sư chúng ta chỉ ngồi cho đủ tụ để tòa án chơi hợp lệ ván bài sắp đặt sẵn mà thôi!”

Đấy là lần đầu ra tòa của tôi.

LeCongDinh-3Tác giả Lê Công Định là cựu luật sư và cựu Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh. Ông là luật sư sáng lập và từng điều hành hãng luật DC Law. Ông còn là một giảng viên luật và là tác giả của nhiều bài báo về pháp luật và dân chủ. Các bài viết và hoạt động tranh tụng của ông cho một số nhà hoạt động nhân quyền khiến ông bị chính quyền Việt Nam bắt giữ năm 2009 và chỉ được trả tự do vào năm 2013.

Lê Công Định

(Luật Khoa)

Jonathan London 
Vì đang nghỉ hè không viết nhiều; tôi sẽ viết thêm tuần sau. Hôm nay chỉ muốn lại chia sẻ với các bạn rằng tôi vẫn còn rất ấn tượng với cả tình thần lẫn nội dung của những gì Bộ Quốc Phòng Mỹ Ashton Carter đã phát biểu tại Sing và Việt Nam. Rất ấn tượng.

Hôm nay có bạn đọc gửi comment tranh cãi này:

Cứ hợp tác, liên minh với Mỹ là OK, nhỉ? Nhìn xem, Ukraine mất mẹ nó Crimea, Donbass nhờ hợp tác với Mỹ đấy. Bây giờ Ukraine có lấy lại Crimea, Donbass được không? Mỹ có thể ném vài quả hạt nhân vào Nga, để bắt Nga trả lại không? Nhìn Gruzia xem, mất mẹ nó Nam Ossetia và Afkhazia nhờ “hợp tác” với Mỹ đấy. Gruzia có thể lấy lại được hai vùng đất này không? Iraq đấy, bây giờ loạn hết cả lên, IS chiếm mẹ mất mấy Tỉnh rồi. Syria cũng như vậy, rối như canh hẹ, cũng bị IS chiếm mẹ mất gần nửa đất nước, chiến tranh liên miên … cũng là nhờ “hợp tác” với Mỹ đấy … Làm gì cũng vậy, các ông cứ ầm ầm, làm rối loạn hết cả lên, cứ vác bom đạn đi nện loạn cả lên … cứ như vậy thì chỉ chết những nước nhỏ thôi. Mấy nước nhỏ ở giữa chết chẹt. Còn mấy ông nước lớn thì có sao đâu. Chính nước Mỹ mới phải xem xét lại tất cả các chiến lược, chính sách can dự và “bình ổn” thiên hạ. Còn với cái kiểu làm ăn hiện nay của nước Mỹ, thì họ đi đến đâu là loạn, đánh nhau đến đấy.

Thú vị! Rất nhiều khi tôi không đồng tình với những chính sách của Mỹ như Iraq v.v. NHƯNG, nghĩ nghĩ gì về những chuyện ngày xưa hay những sai lầm của Mỹ, có ai phủ nhận Bộ Quốc Phòng Mỹ đang đóng một vai trò hết sức cần thiết trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh tổ của đất nước Việt Nam? Có ai phủ nhận đối với việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước, Việt Nam ngày nay không có đối tác chiến lược nào tốt hơn Mỹ?

JL

(Blog Xin Lỗi Ông)

Ảnh: Economist
                                                                      Ảnh: BBC VN

Cuối cùng ngày 3-6-2015, ông Sepp Blatter tuyên bố từ chức sau khi vừa “tái đắc cử” được bốn ngày chức chủ tịch FIFA (Fédération Internationale de Football Association – Liên đoàn Bóng đá Thế giới), dù bảy thành viên cao cấp dưới quyền bị bắt ngày 27-5-2015 tại Zurich (Thụy Sỹ) để điều tra tham nhũng, 14 quan chức bị nghi ngờ có bàn tay bẩn.

Từ FIFA sang Mafia

BBC đưa tin, theo điều tra của Mỹ nói rằng, giới chức trong FIFA đã nhận hàng triệu đôla trong 20 năm để phân phát các giải đấu và gian lận trong bầu cử, rửa tiền, lừa đảo và chuyển tiền gian lận. Bộ Tư pháp Mỹ nói 14 cá nhân bị cáo buộc nhận hối lộ lên tới 150 triệu đôla.

Họ còn phát hiện nhiều âm mưu, trong đó có cả kế hoạch trao World Cup 2010 cho Nam PhiCựu phó chủ tịch Fifa Jack Warner bị tố cáo đòi 10 triệu đôla từ chính phủ Nam Phi cho việc đăng cai World Cup 2010.

Trước khi bầu, Michele Platini, Chủ tịch UEFA (Liên đoàn bóng đá châu Âu), kêu gọi Blatter từ chức, nhưng ông này vẫn “gái đĩ già mồm”, tại sao phải từ chức, làm thế đồng nghĩa với việc ông ta biết những gì xảy ra tại FIFA.

Blatter được hai lá phiếu quan trọng của châu Âu: Tây Ban Nha và Nga. Đích thân TT Putin tuyên bố ủng hộ Blatter. Bắt bớ tại FIFA, kêu gọi chủ tịch từ chức, đó là trò chơi địa chính trị, Putin nói thêm. Tuy nhiên, việc bỏ phiếu quyền đăng cai cho World Cup 2018 tại Nga và 2022 tại Qatar dường như xảy ra “không bình thường”. Thụy Sỹ đang điều tra vụ này. World Cup tại Nga đang bị phủ bóng đen trên bầu trời Moscow.

Các nước nghèo và đang phát triển tại châu Phi, châu Á và Mỹ Latin ủng hộ Blatter. Theo luật bỏ phiếu “dân chủ” của FIFA, nước nhỏ vài trăm ngàn dân như Solomon có lá phiếu bầu tương đương với một quốc gia hơn một tỷ người như Trung Quốc hay Ấn Độ.

Xứ nghèo đói, mong mở mày mở mặt với thế giới thông qua môn bóng đá, sẵn sàng ủng hộ Blatter, vì họ coi chuyện hối lộ, tham nhũng và trộm cắp ở tầng cao là “chuyện bình thường ở huyện”.

Blatter thắng ở châu Á và châu Phi vì từng chia quyền phát sóng tivi và quảng cáo (giá trị gần 6 tỷ đô la tại các World Cup trước) cho các sếp bóng đá tại hai lục địa này. Người ta đang tự hỏi, sau cái quyền đó, tiền có chui vào túi Blatter.

FIFA của Mafia. Ảnh: Economist
                                                         FIFA của Mafia. Ảnh: BBC

Vụ bắt bớ các quan chức FIFA tại Zurich đã làm rúng động hàng tỷ người yêu môn túc cầu. Thật ra lời ong tiếng ve về cách thức FIFA điều hành mang nhiều mầu sắc của tổ chức Mafia mang găng tay trắng. Đã có nhiều điều tra nhưng tất cả trôi vào quên lãng.

Tại sao người Mỹ có thể vươn bàn tay lông lá tới FIFA

Dù là số 1 thế giới trong nhiều chuyện nhưng Hoa Kỳ không phải là cường quốc bóng đá. Lá phiếu của đất nước 320 triệu người có giá trị trong FIFA như nước Lào hay Singapore.

Tuy nhiên, luật pháp Hoa Kỳ cho phép siêu cường này vươn bàn tay lông lá đi khắp thế giới đứng đầu chánh án tối cao, bà Loretta Lynch. Hoa Kỳ có hệ thống tiền xanh (greenback – đô-la) phủ toàn cầu. Họ cho phép bắt giữ bất kỳ ai, tại đâu, thời điểm nào nếu dùng hệ thống nhà bank để chuyển tiền đô la bất hợp pháp. Các quan chức FIFA bị nghi ngờ đã dùng nhà bank Mỹ để thực hiện các giao dịch.

Hoa Kỳ cũng chưa buộc tội các quan chức FIFA về tội hối lộ vì tội danh này chỉ dành cho các quan chức chính phủ làm liều. Tuy nhiên, họ lách luật bắt bớ bằng cách buộc tội những kẻ có dấu hiệu rửa tiền, giao dịch bẩn, mua chuộc qua hệ thống ngân hàng, thông qua luật RICO (Racketeer Influenced and Corrupt Organisations) từng dùng chống lại Mafia.

Họ còn dựa vào luật Travel Act – đi lại nhằm buộc tội những ai đi công cán, dùng các phương tiện và dịch vụ vào mục đích phi pháp. Mọi giao dịch liên quan đến Hoa Kỳ đều là đối tượng điều tra. Ví dụ một nhân viên có tài khoản nhà bank tại Bahamas bay tới New York để lấy 250.000$ tiền hối lộ có thể bị bắt.

Một cách khác mà FBI thường dùng đó là dọa dẫm và mặc cả. Nếu chịu khai ra đồng phạm thì tội danh có thể giảm xuống. Ông Chuck Blazer và mấy ông con trai của cựu quan chức FIFA đã nhận tội và phun bí mật ra những kẻ khác. Có lẽ vì thế mà Blatter thấy nóng đít đã từ chức.

Cách thức mà pháp lý Hoa Kỳ thực thi không được châu Âu đồng thuận, nhất là khai ra đồng phạm nhằm thoát tội dễ làm cho vụ điều tra bế tắc do kẻ bị tình nghi muốn đổ lỗi cho người khác. Chõ mũi vào việc của người khác cũng là điều nên tránh.

Tương lai của môn túc cầu

Sau vụ này, FIFA sẽ phải cải tổ hoặc xây dựng lại từ đầu dù người đứng đầu trong sạch nhưng cách thức tổ chức này hoạt động theo kiểu mafia thì khó mà tránh những lỗi lầm trong tương lai.

Ngay cả Michele Platini có tiếng là trong sạch nhưng báo chí đã phanh phui danh thủ Pháp lừng danh chơi ở vị trí trung phong biết làm thế nào để chơi trò với FIFA nhằm hạ bệ tổ chức này.

Hình ảnh Platini sáng chói bao nhiêu trên sân cỏ thì càng lu mờ bấy nhiêu vì đã ủng hộ Qatar trong World Cup 2022. Ông ủng hộ việc đổi lịch thi đấu sang mùa đông ở Qatar nhằm tránh mùa hè nóng nực ở sa mạc đã làm các câu lạc bộ châu Âu nổi giận vì đang mùa thi đấu ở châu lục này.

Dù Platini khăng khăng bỏ phiếu vì sự tốt đẹp của bóng đá, nhưng không thể chối được rằng, vào tháng 11-2010, 10 ngày trước khi Qatar được chọn cho World Cup 2022, ông ta đã dự bữa cơm thân mật với Tổng thống Pháp Sarkozy và Thủ tướng Qatar. Năm sau đó, Pháp được ký kết nhiều hợp đồng xây dựng công nghiệp thể thao, và con trai của Platini là sếp của một công ty sản xuất đồ thể thao của Qatar.

Good bye, Blatter. Ảnh: Economist
                                                    Good bye, Blatter. Ảnh: Internet

Con đường cho bóng đá thế giới còn nhiều chông gai. FIFA, UEFA hay bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, dễ trở thành Mafia nếu lợi ích nhóm tiếp tục len lỏi trong giới quan chức cao cấp và bị đồng tiền làm lóa mắt. Mafia thường thanh toán lẫn nhau hết sức đẫm máu ngay cả khi chẳng có viên đạn nào bắn ra.

Hình như khủng hoảng bóng đán thế giới chưa có lối thoát. Cho đến thời điểm hiện tại, dường như FIFA đang pha phí lòng tin của người yêu trái bóng hai mầu trắng đen nếu sự bẩn thỉu của các quan chức chóp bu là có thật.

Hiệu Minh . 7-6-2015

PS. Bài viết trong thời gian ngắn, chưa được biên tập kỹ, mong bạn đọc thông cảm.

(Blog Hiệu Minh)

Để duy trì một xã hội trật tự, mọi thể chế cần được vận hành trên tinh thần thượng tôn pháp luật, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự lộng hành và các bất công trong xã hội. 

Cũng như nhiều dân tộc khác, lòng yêu nước và tinh thần sẵn sàng xả thân của dân tộc Việt Nam là không cần bàn cãi. Lịch sử hàng ngàn năm qua cho thấy mỗi khi đất nước bị lâm nguy từ các mối đe dọa ngoại bang, chính là lúc lòng ái quốc của dân ta được phát huy mạnh mẽ nhất.  

Trước kẻ thù ngoại bang, dân tộc Việt là một khối, nhưng khi hết các mối đe dọa này và được sống cùng nhau trong hòa bình lòng “yêu nước, thương nòi” của chúng ta có còn phát huy sức mạnh và chuyển hướng phục vụ sứ mệnh mới của dân tộc hay không?  

Ái quốc trong thời bình 

Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường mới khiến cho dân tộc Việt Nam – vốn được coi là nghèo nàn, lạc hậu rất nhiều so với những kẻ xâm lược, lần lượt vượt qua các cuộc chiến với thành quả là hình ảnh của một nước tự do và độc lập. Tuy nhiên, nhìn vào những gì mà đất nước đã làm được trong mấy chục năm hòa bình vừa qua trên các khía cạnh kinh tế, văn hóa và vận hành xã hội, dường như chưa tương xứng với những gì hằng trông đợi. 

Nếu nhìn nhận theo khía cạnh “quản trị”, nhà nước chính là “chủ thể có trách nhiệm” thực thi các chính sách và điều hành vĩ mô thông qua các trụ cột “Lập pháp, Tư pháp và Hành pháp” trên nền tảng của Hiến pháp. Mục đích là nhằm đảm bảo cung cấp cho người dân – “chủ thể giữ quyền” một môi trường xã hội an sinh, ổn định cùng các cơ hội phát triển bình đẳng và minh bạch. Để duy trì một xã hội trật tự, mọi thể chế cần được vận hành trên tinh thần thượng tôn pháp luật, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự lộng hành và các bất công trong xã hội, vốn được xem là một trong các tác nhân gây ra đói nghèo trên toàn thế giới. 

Nhiều người hay đổ lỗi cho nhận thức kém hay thiếu hiểu biết của “một bộ phận không nhỏ” người dân về pháp luật. Nhưng hãy nhìn cái cách một số xe thuộc diện được ưu tiên thường xuyên vượt quá tốc độ hay vô tư đi vào đường một chiều trong một ngày trời đẹp và không có nhiệm vụ khẩn, có thể thấy rằng vẫn tồn tại cách ứng dụng các tiêu chuẩn kép trong hành pháp của chúng ta. 

Chuyện các lái xe thường xuyên sử dụng sự trợ giúp “gọi điện thoại cho người thân” hoặc “50:50” mỗi khi bị lập biên bản vì vi phạm luật giao thông là minh chứng cho vấn đề “pháp hữu vị thân” trong xã hội Việt ngày nay. 

Khi mọi người không bình đẳng với nhau trước pháp luật do những ảnh hưởng của các nhân tố “hậu duệ”, “quan hệ” và “tiền tệ” tạo ra, thì cũng có nghĩa là nhiều người có thể được ưu tiên và không cần phải chịu trách nhiệm mỗi khi làm việc gì đó sai trái hay thậm chí là phạm luật. Khi đó sự minh bạch sẽ bị che lấp và tạo nên tiền đề cho những nhóm có “điều kiện” chi phối các chính sách phát triển của nhà nước, hoặc thậm chí lộng hành trong từng lĩnh vực. 

Chính việc cho phép độc quyền của nhà nước trong cung cấp một số dịch vụ công thuộc các lĩnh vực được coi là thiết yếu, cộng với sự lộng hành ngày một tăng của nhiều chủ thể có trách nhiệm vốn xa lạ với khái niệm trách nhiệm giải trình là các điều kiện cần và đủ khiến tham nhũng lan tràn. 

Tham nhũng nhưng không phải chịu trách nhiệm giải trình và không bị trừng phạt diễn ra thời gian qua khiến cho một bộ phận những người nắm quyền lực luôn cố gắng chuyển thành các lợi thế để từ đó có thể sinh lợi cho bản thân. Hệ quả của vấn đề này chính là người ta đang đặt đồng tiền vào các giao dịch có vai trò điều hành của nhà nước.  

Hiệp định, ký kết, Việt Nam, Hàn Quốc, lãnh đạo
Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường mới khiến cho dân tộc Việt Nam lần lượt vượt qua các cuộc chiến. Ảnh minh họa

Ở đó, người này tìm cách lấy tiền của người kia nhờ vai trò “độc quyền” của mình, để rồi lại sử dụng một phần số tiền đó phục vụ người khác mỗi khi phải cầu cạnh việc gì đó. Một khi đồng tiền được sử dụng như một công cụ bôi trơn trong vận hành xã hội, thì sẽ thật khó cho ai đó có thể chen chân và có được một vị trí mà chỉ nhờ vào năng lực bản thân. 

Lòng ái quốc đã bị lấn át và nhấn chìm trong phương châm sống của một bộ phận những “ông quan” thời hiện đại khi họ bận rộn với những toan tính như làm thế nào để có thể lấy lại vốn mình đã bỏ ra và nhanh chóng có lãi. Chất “sĩ phu” của người trí thức ngày nào không còn nữa, mà thay thế bằng lối sống hưởng thụ và thực dụng, do thiếu lòng tin vào sự ổn định của tương lai nên cố gắng vun vén cho gia đình mình khi còn có cơ hội.  

Nhìn vào cách một số “công bộc của dân” tiêu tiền từ nguồn vốn vay ODA theo hướng “đâu có tiền là ta cứ tiêu” và “đời cua cua cứ máy, đời cáy kệ cáy đào”, mới thấy rõ ràng rằng nhiều người, vì quyền lợi của bản thân, đã và đang đi ngược lại tinh thần ái quốc. Bởi họ đã làm thất thoát và lãng phí một nguồn lực quan trọng vốn có thể tạo ra động lực giúp đất nước bứt phá nếu được huy động và sử dụng một cách phù hợp. 

Khi lãnh đạo khóc 

Cần thừa nhận rằng, trong gần 20 năm qua, đã có nhiều thế hệ lãnh đạo và đội ngũ công chức tận tâm phục vụ vì sự phồn vinh của đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực đối ngoại, trong đó có việc tham gia vào các cuộc đàm phán song phương và đa phương giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn với thế giới bên ngoài. 

Trong nghề ghiệp đặc thù này, khó có thể đảm bảo rằng tất cả những quyết định mà người tham gia đàm phán đưa ra đều chính xác và mang lại lợi cho quốc gia. Quan trọng là mỗi người cần trang bị cho mình một tinh thần thép và giữ vững nguyên tắc nhất quán “lấy lợi ích quốc gia làm trọng”. Sẽ tốt hơn, nếu đôi lúc chúng ta nhìn lại, đánh giá những gì đang xảy ra trong hiện tại để  rút ra những bài học thực tiễn rằng mình đã có thể làm tốt hơn cho quốc gia nếu biết đánh giá đúng đối thủ bằng sự khôn khéo và khả năng nhạy bén.  

Kết quả các vòng đàm phán về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) – mà hai nước ký kết vào đầu tháng 5 vừa qua được nhiều người xem như là một thắng lợi to lớn của phía Việt Nam. Thành tựu này được một lãnh đạo minh chứng bằng câu chuyện một vài người bên đoàn Hàn Quốc đã khóc và xin được rút lại một số điều khoản đã thống nhất trước đó trước khi Hiệp định này được ký vào sáng hôm sau.  

Không nghi ngờ về tính chính xác của thông tin này, nhưng khi nhìn câu chuyện này theo một hướng khác thì có thể giải thích được tại sao người Hàn lại có thể xây dựng và phát triển đất nước họ được như ngày hôm nay. 

Khi nào Việt Nam chưa có một lãnh đạo ngành lâm nghiệp khóc trước Quốc hội vì nạn chặt phá rừng; lãnh đạo ngành giáo dục tuyên bố chịu trách nhiệm vì suốt gần nhiệm kỳ của mình chất lượng giáo dục quốc gia không biến chuyển, hay những quan chức ngồi trong xe biển xanh sẵn sàng sa thải lái xe nào luôn vi phạm luật giao thông, v.v… khi đó lòng yêu nước của nhiều người Việt trong thời bình vẫn còn nghèo như chính nền kinh tế của chúng ta vậy. 

Trần Văn Tuấn 

(Tuần Việt Nam)

KHÔNG CHẾT MỚI LÀ LẠ

Không thể đưa dân tộc đi theo con đường mò mẫm như thí điểm con chuột bạch khốn cùng. Bản năng gốc như 5 mô men động lực của con người. Khái niệm bản năng gốc là cội nguồn có ý nghĩa cơ sở để xem xét khách quan mọi vấn đề, của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Nó luôn là động lực cho sự tồn tại và phát triển của muôn loài, trong đó có loài người. Nếu biết vận dụng “đồng pha” trên con đường phát triển đất nước, thì sẽ thấy rõ mê muội, lú lẫn và lạc lõng là đồng nghĩa với cái chết theo cả hai nghĩa đen và bóng.

Trong mỗi con người đều có 5 bản năng gốc bao gồm: bản năng sống (tồn tại), bản năng sinh sản (duy trì nòi giống), bản năng bày đàn (đám đông), bản năng đầu đàn (quyền lực) và bản năng sáng tạo (tư duy). Riêng bản năng sáng tạo chỉ con người mới có, nhờ nó mà con người có văn hoá. Nên nhớ rằng văn hoá là tất cả những gì con người sáng tạo ra.

Thu vén, tham lam, tham ô là hệ quả của bản năng sống. A rua, tôn giáo, đảng phái.... là bản năng bày đàn. Tham quyền cố vị, triệt hạ lẫn nhau, hám danh....là bản năng quyền lực.

Ngoại tình, đam mê tình dục... là hệ quả của bản năng sinh sản. Cường độ và mức độ thể hiện của các bản năng đó khác nhau. Ví dụ như bên Ấn Độ, bên Phi Châu bản năng tình dục lại phát triển nhiều, còn ờ Việt Nam có lẽ sĩ diện cá nhân lại nổi trội. Hiểu được những đặc điểm đó ở mỗi cộng đồng, mỗi vùng là đã chiếm được nhiều ưu thế. Nhưng chọn thời điểm để tác động phải là một nghệ thuật.

Theo tôi hiểu, khái niệm bản năng gốc này là cội nguồn có ý nghĩa cơ sở để xem xét khách quan mọi vấn đề, của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Nó luôn là động lực cho sự tồn tại và phát triển của muôn loài, trong đó có loài người.

Bản năng gốc như 5 mômen lực, nếu đồng pha thì phát triển, dị pha thì lụi tàn. Xã hội là tổng hoà các mômen trung bình của từng nhóm lợi ích, và mômen nhóm là tổng hoà của mỗi thành viên.

Thế giới, trong đó có Việt Nam đang trong tình trạng có chỉ số Entropia (nhiệt động) cực đại, đây là thời điểm đăc biệt, sớm muộn cũng bị phá vỡ để chuyển về trạng thái cân bằng mới. Khi nội năng càng lớn thì sự cân bằng càng mỏng manh. Đây là thuộc tính của xã hội đương đại. Nhờ bản năng sáng tạo con người sinh ra văn hoá, nền văn hoá bong bóng đang thịnh hành ở ta và nhiều nơi khác sẽ sớm xụp đổ, điều ấy chì còn là thời gian.

Những bản năng đó gắn với những lợi ich trong "tháp lợi ích" 5 tầng của Abraham Maslow. Rất đáng tiếc, tất cả chỉ gắn với "tầng 1" của tháp. Entropia chính là đấu tranh giai cấp theo cách lý giải của chủ nghĩa khoa học biện chứng. Xã hội Việt Nam hiện nay, cũng giống như trước đây luôn nằm trong các trạng thái cân bằng , mất cân bằng rồi tự lấy lại cân bằng vv... Trong các chu kỳ sau của cân bằng và mất cân bằng thường cao hơn các chu kỳ trước và mang tính văn minh hơn.

Ở Việt Nam, có hàng ngàn thứ không chỉ “rất lạ”, mà phải nói “vô cùng lạ”!. Đơn cử như: Không biết có những đảng chính trị nào trên thế giới ghi vào Cương lĩnh của đảng mình mệnh đề sau đây như Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.” (Cương lĩnh năm 2011). Trong khi đó, theo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm, đến hết thể kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay không? . Vậy hóa ra còn khoảng 100 năm nữa nước ta mới có độc lập dân tôc!. Phần lớn các nước trên thế giới vẫn giữ được độc lập dân tộc còn vững chắc hơn ta mà không hề theo chủ nghĩa xã hội, chúng ta giải thích thế nào về hiện tượng phổ biến này!?

Ở Việt Nam không phải “chính quyền là vua”, mà phải nói cho chính xác “đảng là vua”, Bộ Chính trị là những ông vua tập thể. Ở Việt Nam hiện có hai chính quyền song song tồn tại trong một nhà nước thống nhất (giống như Liên Xô trước ngày tan rã). Chính quyền 1 là đảng. Đảng có siêu quyền lực, nhưng không hề chịu sự kiểm soát của bất kỳ ai và cũng không phải do dân bầu. Chính quyền 2, cho dù là hình thức, do dân bầu, nhưng chỉ là hệ thống chính quyền “ăn theo, nói leo”.

Tình hình của ta hiện nay chẳng khác gì ở Liên Xô trước ngày tan rã và các nhà lãnh đạo Liên Xô nhận ra điều này thì đã quá muộn, không còn đủ thời gian để sửa sai. Ngày 23 tháng 6 năm 1990, trên tờ “Sự thật”, ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, nhà lý luận của Đảng cộng sản Liên Xô đã nêu lên đặc trưng của hệ thống chính quyền nhà nước Liên Xô lúc bấy giờ là: “một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng, trên thực tế, đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách nhiệm về kinh tế hay pháp lý nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình”. Và chỉ 14 tháng sau khi tuyên bố này được đưa ra, ngày 19 tháng 8 năm 1991 Đảng cộng sản Liên Xô tan rã trong nháy mắt và Liên Xô sụp đổ sau 74 năm tồn tại.

Ở Việt Nam khác với hầu như các nước trên thế giới rất sợ từ “công lý”, báo chí có nhắc tới chỉ nhắc trong cụm từ “Danh hài Công lý”, còn trong các bộ luật hình sự, dân sự, ngay trong các bản án đều vắng bóng thuật ngữ “công lý”. Mở đầu bản án bao giờ cũng có dòng chữ in đậm “Nhân danh nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chứ không phải “Nhân danh công lý”, như thiên hạ vẫn làm. Và còn vô số điều “vô cùng lạ” lạ khác nữa….

Có lần tôi được nghe trực tiếp một vị trí thức (tướng công an) nhận xét về quy hoạch nhân sự ở Việt Nam người nào bộ mặt sạch sẽ và thông minh quá thì đó lại là khiếm khuyết. Mới nghe thấy rất lạ, tưởng đùa nhưng ngẫm suy thì đó là sự thật. Đối với "Văn hóa làng chài" của Việt Nam thì người tài khó thể hội nhập, đăc biêt, khi đất nước không còn hiểm họa ngoại xâm. Việt Vương Câu Tiễn (Vua nước Việt) sau khi diệt nước Ngô, hai mưu lược gia thân cận kỳ tài là Phạm Lãi phải bỏ nước ra đi, còn Văn Chủng bị bức hại vì quá giỏi. Khi điểu đã bay xa thì cung quý chẳng để làm gì, khi thỏ quý đã được bắt, thì chó quý giết thịt mà ăn.

Hiện tượng lịch sử này được lặp lại vào thời nhà Hậu Lê. Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi là những công thần lập quốc, nhưng họ cũng bị Lê Lợi xử trảm và bất tín không dùng, đến thời nhà Nguyễn, thì Nguyễn Ánh cũng không khác các tiền nhân xưa mấy.

Điểm yếu của Văn hóa Làng chài vẫn tồn tại từ rất xa xưa không dễ thay đổi, ngay cả trong cách chọn nhân tài đất Việt ngày nay. Cơ chế của ta trong lựa chọn nhân sự nhiều khi là một bộ lọc ngược. Càng có kiến thức sâu rộng, càng có chủ kiến riêng, càng vô tư và lòng tự trọng thì càng dễ bị loại bỏ khỏi số đông ưa ăn theo nói leo, mang nhãn hiệu "ý thức tổ chức" cao, kiên định lập trường này nọ để che dấu lợi ích nhóm, tham vọng vinh thân phì gia !

Không phải ngẫu nhiên trong dân gian truyền khẩu "giàu người ta ghét, nghèo ngươi ta kinh, thông minh ta cho chết" nên linh tinh ta cho quyền . Cụ Nguyễn Du đã phán " chữ tài liền với chữ tai một vần " đúng với lãnh đạo giỏi thì họ thu phục người tài, lãnh đạo kém thì dùng đám xu nịnh cơ hội và gây chia rẽ để nắm quyền.

Trong bất kỳ một cuộc lột xác thay đổi nào đều không tránh khỏi nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần. Mục tiêu tối thượng phải làm sao để dân ta tránh được đổ máu lần nữa, làm sao để không hao tổn hiền tài và nguyên khí quốc gia. Muốn tránh được điều này, thay đổi thể chế, đoàn kết dân tộc và thực hiện dân chủ phải thực sự bắt đầu từ trong đảng. Câu hỏi đặt ra là Đảng chọn gì? Chọn quốc gia, dân tộc hay chọn duy trì quyền lãnh đạo của nhóm thiểu số trong Đảng?

Có thể nói chưa có lúc nào đất nước ta lại lâm vào cơn khủng hoảng lòng tin, đường lối phát triển tù mù và tình trạng ngày càng lún sâu vào khủng hoảng toàn diện cùng với nguy cơ lớn từ phía Trung Quốc đe dọa độc lập và chủ quyền quốc gia như hiện nay. Bài học lịch sử mà nhà Trần đã mang lại là phải đi từ Hội nghị Bình Than thì mới có Hội nghị Diên Hồng.

Việt Nam đã thống nhất đất nước nhưng chưa hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng con người. Chính hệ thống song hành Đảng - Chính quyền cộng với các loại vòi ( bàn tay ) nối dài của Đảng làm cho bộ máy cầm quyền trở nên nặng nề, cồng kềnh, chồng chéo nên kém hiệu lực và góp phần làm cho năng suất lao động vốn đã thấp mà tốc độ tăng đang giảm dần thê thảm như hiện nay. Cái lỗi hệ thống này, cùng với “văn hóa làng chài” nếu cứ để vậy thì không chết mới là lạ.

Thiết nghĩ sự đổ vỡ là tất yếu đối với ngôi nhà có nền móng yếu không tựa trên 5 cái trụ cơ bản của động lực con người nên vecto lực tổng hợp bị triệt tiêu đi nhiều. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cách nhìn nhận mang tính Logic, nếu nhìn vào lịch sử thì các chế độ Toàn trị ( kể cả các nhà nước Phong kiến Á châu trước kia) đều giống nhau ở chỗ chúng không thèm đoái hoài tới cái Vecto tổng lực kia. Các chế độ toàn trị đó rất dẻo dai, tồn tại hàng ngàn năm và chỉ bị sụp đổ hoặc buộc phải thay đổi, biến báo để thích nghi khi bị sức ép từ bên ngoài hệ thống toàn trị khép kín đó. Ngày nay toàn cầu hóa, hội nhập chính là áp lực mạnh từ mọi phía khiến các xã hội toàn trị bị vỡ ra nhanh hơn.

Đành rằng với người lãnh đạo thông minh, có viễn kiến và bản lĩnh thì việc cải cách Thể chế đúng lúc, đúng hướng sẽ cứu vãn sự sụp đổ, thế nhưng ở Việt Nam hiện nay dường như điều này chưa thấy xuất hiện.

Tô Văn Trường

(Blog Tễu)

Ngày 05/6 vừa qua, Quốc hội Việt Nam đã dành trọn một ngày để thảo luận về báo cáo giám sát tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự.

     Theo báo cáo giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, trong ba năm qua, cả nước có 71 trường hợp bị hàm oan, trong đó có 27 trường hợp oan sai thuộc trách nhiệm của Viện Kiểm sát. Theo báo chí lề đảng, những tiếng nói ngày càng can đảm, thông điệp mà cử tri nhận được sau các phiên thảo luận báo cáo giám sát nói chung thường chỉ dừng lại ở mức độ “chúng tôi hiểu vấn đề”. Trong khi cái mà người dân cần ở Quốc hội là thái độ “chúng tôi giải quyết vấn đề”.

     Tuy nhiên, cách đặt vấn đề về án oan, sai trong báo cáo giám sát của Quốc hội mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Đó hầu như là những vụ án oan, sai rõ mười mươi và sự vào cuộc của các cơ quan truyền thông, của dư luận. Ví dụ như vụ án oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn, khi thủ phạm thực sự ra đầu thú, thì mới mặc nhiên ông Chấn bị án, tù oan. Vậy còn những vụ án mà thủ phạm thực sự không ra đầu thú, nhưng những chứng cứ vô tội và những chứng cứ ép cung, nhục hình và vô lý như vụ tử tù Nguyễn Văn Chưởng (người ở huyện Kim Thành, Hải Dương, bị công an Hải Phòng bắt, kết án tử hình tội giết người), và vụ Hồ Duy Hải ở Long An thì sao?

     Vấn đề án oan ở Việt Nam không thể xem xét đơn giản như vậy được. Án oan ở Việt Nam cần được xem xét dưới góc độ quyền con người và tương quan với pháp luật nhiều nước trên thế giới. Nếu những vụ án như mới xảy ra cho hai ông Mai Đình Tân (47 tuổi) và Nguyễn Văn Ly (43 tuổi) ở huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, mỗi người bị 15 tháng tù giam vì đã bức xúc kêu lên: “công an đánh chết người” trong vụ cháu của hai ông là Tu Ngọc Thạch (15 tuổi) đã bị công an huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa đánh chết chính là một vụ án oan. Hoặc như vụ việc cô người mẫu kiêm diễn viên Trần Thị Trang (Trang Trần, Cô Khàn) say rượu xúc phạm công an cũng bị khởi tố thì đó là những vụ việc không thể chấp nhận được, đó là sự tùy tiện trong pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

     Như vậy, xét theo hệ quy chiếu là quyền con người và so sánh luật pháp tương đương ở các nước, chúng ta cần phải thừa nhận, án oan sai ở Việt Nam là rất lớn, bắt nguồn từ các quá trình: xây dựng luật, điều tra, và tố tụng.

     Điều đầu tiên, đó là những quy định, những quy phạm pháp luật trong các tội danh rất mập mờ, không rõ ràng và sáng tỏ (những yêu cầu dứt khoát về luật pháp là rõ ràng, minh bạch và sáng tỏ). Chưa hết, hầu như tội danh nào cũng có khung hình phạt kỳ lạ từ 2 đến 6 năm, nghiêm trọng thì tới chung thân, tử hình. Khung hình phạt như vậy chính là lỗ hổng pháp luật nghiêm trọng để tòa án định đoạt tùy tiện và dẫn tới những án oan, sai.

     Quá trình điều tra cũng là quá trình dẫn tới những vụ án oan, sai nghiêm trọng. Việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra, còn gọi là tra tấn, đánh người là một quy trình quan trọng của quá trình điều tra. “Treo cánh tiên” là thuật ngữ chỉ thao tác tra tấn của ngành công an. Đó là, người bị can bị còng số 8 treo vắt lên trên không, chỉ hai đầu ngón chân cái chạm đất và cán bộ điều tra giữ tư thế của bị can như vậy để tra tấn, đánh đập và hành hạ. Đã có rất nhiều người nói về hành vi này ở các vụ án oan, và như vậy, tra tấn là quy trình chung của quá trình điều tra ở tất cả các địa phương trong cả nước. Chính vì lý do này (áp dụng tra tấn để điều tra) mà ngành công an và các ngành có liên quan khác kiên quyết phản đối “quyền im lặng” cũng như việc ghi âm, ghi hình trong quá trình thẩm vấn bị can.

     Tố tụng là một quá trình ở đó các quyền con người, quyền của luật sư bị coi thường và vi phạm nghiêm trọng. Nếu ai đó đã từng chứng kiến các phiên tòa thì sẽ thấy các thẩm phán thể hiện uy quyền, áp chế và vi phạm các quyền của bị can, bị cáo cũng như luật sư bào chữa ra sao. Việc trấn áp trong quá trình tố tụng cũng chính là khía cạnh quan trọng đẩy người dân vào các mức án hoàn toàn phi lý và oan khuất.

     Chúng ta đã biết được, hiện nay có một đội ngũ dân oan hùng hậu khắp cả nước. Những người dân oan này, ngoài việc bị mất đất đai, rất nhiều người phản kháng đã bị những án tù đày, oan ức. Hệ thống pháp luật hình sự của Việt Nam, kết hợp với quá trình điều tra và tố tụng, đã tạo ra vô số những người bị tù, án oan sai, oan khuất.

     Có một câu hỏi đặt ra, là tại sao nhà cầm quyền cộng sản nói chung, và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nói riêng lại cho áp dụng hệ thống pháp luật mập mờ, không rõ ràng, với khung hình phạt rộng lớn cho nhiều tội danh, đồng thời áp dụng các biện pháp tra tấn trong điều tra, áp chế trong tố tụng dẫn tới rất nhiều án oan, sai đối với người dân như vậy? Câu trả lời là, đối với chế độ cộng sản, mục đích là thống trị nhân dân, họ biết là việc thống trị nhân dân sẽ tạo ra sự phản kháng, họ luôn coi nhân dân là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất. Chính vì vậy, pháp luật cũng như sự vận hành pháp luật là nhằm thể hiện uy quyền và ngăn chặn những sự chống đối, phản kháng. Đối với họ, cư xử với kẻ thù như vậy là đã quá nhân đạo rồi./.

Hà Nội, ngày 06/6/2015

N.V.B

(Blog RFA)

Sâu Ciu Blog