vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:


(ĐCSVN) Lợi ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là mục tiêu và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn trọng, bảo vệ và khuyến khích. Quên điều này, không quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người, ngăn cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã hội không thể thành công, trước sau cũng nhất định thất bại.

Ảnh minh họa. (Nguồn: tuyengiao.vn)
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và trong Đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực cùng với tham vọng tiền bạc.

Ở nước ta, trong lãnh đạo, người đầu tiên công khai hóa và nêu lên sự cần thiết phải đấu tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã phát biểu tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI), và sau đồng chí, một vài đồng chí lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ mới thoáng qua và nhìn chung, chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc ngăn ngừa, phòng chống “lợi ích nhóm”. Trong giới khoa học của Việt Nam đã có một số nghiên cứu, nhưng chưa nhiều, và mới ở dạng lý thuyết chung, chưa gắn với thực tế tình hình nước ta. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với quá trình phát triển của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.

Hiện nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong quản lý ngân sách, thuế, quản lý ngân hàng – tín dụng; trong quản lý các nguồn vốn và chương trình đầu tư về xã hội, trong quản lý tài sản, đất đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất nhập khẩu; trong công tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý các loại cấp giấy phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách và trong điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham nhũng có tổ chức, các vụ việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thông tin cụ thể về tình hình “lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã lan rộng, khá phổ biến và khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động.

“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có tác hại gì? Trước nhất là nó làm cho đất nước bị tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư, bị kìm hãm không thể phát triển nhanh, thậm chí không thể phát triển bình thường, mất sức sống, nền kinh tế sẽ bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”, chụp giật, hoang dã, khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để giành độc quyền, làm hỏng môi trường phát triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Hầu hết các nước bị “bẫy” thu nhập trung bình kéo dài nhiều thập kỷ, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ, loay hoay mãi, lùng nhùng mãi, không làm sao thoát ra được để trở thành một quốc gia phát triển, là do “lợi ích nhóm” – nguyên nhân trực tiếp và hàng đầu. Với sự chi phối của các “nhóm lợi ích”, nguồn lực quốc gia bị phân bổ và sử dụng không vì lợi ích chung của quốc gia, mà nhằm hướng phục vụ cho “lợi ích nhóm”; việc bố trí đầu tư, sắp xếp dự án và kể cả ban hành chính sách, điều hành xử lý công việc cũng vậy.

Nước ta sau mấy chục năm công nghiệp hóa, đến nay năng suất lao động xã hội vẫn quá thấp, vào loại thấp nhất khu vực Đông Á, hiệu quả đầu tư rất kém, nợ nần nhiều mà chưa rõ trả bằng cách nào, khi mà hiệu quả đầu tư (sử dụng nguồn vay ấy) quá kém; thu nhập rất thấp, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu hầu như không có, các chương trình nội địa hóa không thành công, chủ yếu là làm thuê và cho thuê mặt bằng, nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào “bẫy” thu nhập trung bình thấp. Nhìn lại nguyên nhân các nước bị “bẫy” thu nhập trung bình và nhìn lại tình hình nền kinh tế của ta thì đáng lo ngại.

Hậu quả thứ hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa tư bản hiện đại), đất nước đi theo một con đường khác, sang CNTB thân hữu, đó là con đường không có tiền đồ và nguy hiểm, không có tự do và dân chủ (vì bị nhóm lợi ích độc quyền về kinh tế và chính trị thâu tóm, lũng đoạn), để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải gánh chịu. Chúng ta mong muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng của các giá trị nhân cách thì “nhóm lợi ích” lại thúc đẩy đồng tiền cộng với quyền lực chiếm địa vị thống trị. Thực chất “nhóm lợi ích” là đồng tiền (tư bản) chi phối quyền lực, trực tiếp tham gia giành và chiếm giữ quyền lực, làm cho quyền lực không còn là của nhân dân, cũng có nghĩa là chệch khỏi mục tiêu XHCN (chân chính). “Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có từ rất sớm, ít nhất là từ buổi đầu của thời kỳ phong kiến; nhưng sang thời kỳ TBCN thì nó phát triển và diễn biến phức tạp hơn, kể cả trình độ, quy mô và tính chất. Trong Chủ nghĩa tư bản “hoang dã”, “mông muội”, các “nhóm lợi ích” hoạt động phổ biến, công khai, tích lũy và tập trung tư bản bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực và giết người.

Nhân đây, trước khi nói đến hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra, xin nói rõ hơn về CNTB thân hữu. Suốt mấy trăm năm nay, qua quá trình cạnh tranh, qua đấu tranh xã hội, chịu sự tác động của các quy luật khách quan về kinh tế và xã hội, CNTB buộc phải liên tục điều chỉnh, nhờ vậy mà tiến bộ dần. Ngày nay CNTB hiện đại đã có những tiến bộ đáng ghi nhận; họ đã tạo ra nhiều thành tựu và một số nước phát triển cao, tính chất xã hội hóa cao hơn, đang dần dần từng bước tạo ra các nhân tố mới của xã hội tương lai (XHCN). Đồng thời với quá trình tiến hóa tự nhiên ấy, trong thực tiễn thế giới tư bản còn xuất hiện một khuynh hướng khác, một khuynh hướng không lành mạnh, không bình thường, một khuynh hướng tha hóa, đó là CNTB thân hữu, một loại hình nguy hại cho sự phát triển của các quốc gia. Nước nào rơi vào “CNTB thân hữu” thì không ngóc đầu lên được. CNTB thân hữu thực chất là sự bành trướng, biến dạng, biến tướng, sự thoái hóa cao độ của “nhóm lợi ích” gây ra. Đây là một loại hình rất lạc hậu, khác xa so với CNTB hiện đại (CNTB hiện đại cũng có nhiều mặt tiến bộ, mà chúng ta cần nghiên cứu để học tập kinh nghiệm của họ) và tất nhiên là càng xa lạ với CNXH văn minh.

CNTB thân hữu còn có các cách gọi khác nhau, là “CNTB lợi ích”, “CNTB bè phái”, “CNTB bè cánh”, “CNTB lũng đoạn”… CNTB thân hữu không phải là một giai đoạn của CNTB, mà là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của CNTB. Đây là loại hình “phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế về mối quan hệ với những người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính cho cá nhân và đơn vị mình. Các doanh nghiệp này tập trung đầu tư vào “quan hệ”, vào “quan chức” để từ đó mà dùng quyền lực tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Đặc trưng của “CNTB thân hữu” là có sự cấu kết, xâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền chính trị, người kinh doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có quyền lực cũng tham gia “kinh doanh”, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau bóc lột “mềm” toàn xã hội, bóc lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài chính, của cải và thâu tóm quyền lực chính trị, biến bộ máy nhà nước thành công cụ của một nhóm người (nhân danh nhà nước và đảng cầm quyền) thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp với độc quyền chính trị. Nói họ thực hiện bóc lột “mềm” là vì không có hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh cụ thể để trực tiếp bóc lột giá trị thặng dư của lao động, sự bóc lột của họ tinh vi hơn, nhưng tai hại hơn, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Sự bóc lột ấy thực hiện thông qua các dự án, các chương trình đầu tư; thông qua các cơ chế, chính sách (không phục vụ cho toàn xã hội mà phục vụ cho một nhóm người) và thông qua cách điều hành, cách quản lý mập mờ, không minh bạch, gây tiêu cực, tham nhũng… Họ thu lợi thông qua các công ty “sân sau”, công ty con, công ty cháu, công ty nhánh của gia đình, của “cánh hữu”. Nó ra đời trong (và gắn với) CNTB “man rợ”, CNTB “dã man”, chứ không phải CNTB văn minh.

Rất đáng lưu ý là, “CNTB thân hữu” không chỉ có trong xã hội tư bản (yếu kém và tha hóa) mà còn có trong các xã hội khác, ở các nước mới bắt đầu vận hành nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, khi mà ở đó “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích”, “lợi ích bè phái”, “tính thân hữu vì lợi ích” đang nổi lên và hoành hành; khi mà đảng cầm quyền cùng nhà nước do nó lãnh đạo bị suy thoái về đạo đức, tham nhũng trở nên phổ biến và pháp luật không được tuân thủ trong sự quản lý đất nước, quản lý xã hội (tức là trình độ quản trị quốc gia yếu kém). Thực tiễn thế giới cho thấy, CNTB thân hữu kìm hãm sự phát triển của quốc gia, làm cho đất nước rơi vào “bẫy” thu nhập trung bình hàng thế kỷ không ra được, làm băng hoại đạo đức xã hội (do lệch chuẩn giá trị); làm méo mó, biến dạng các chủ trương đường lối; gây nên các khuyết tật của nền kinh tế và của xã hội, để hậu quả lâu dài. CNTB thân hữu xuất phát từ các nguyên nhân, nguồn gốc: “Lợi ích nhóm” tiêu cực, các dạng Maphia, tham nhũng có tổ chức, sự suy thoái đạo đức của cán bộ có chức quyền, không có cơ chế kiểm soát quyền lực, để quyền lực tha hóa và không có cơ chế tốt để dân làm chủ, để nhân dân có quyền lực thật sự, trình độ và năng lực quản trị quốc gia yếu kém, luật pháp còn nhiều kẽ hở và việc chấp hành pháp luật không nghiêm, bảo kê, bao che và dung túng cho các sai phạm. Ở đâu và khi nào mà “nhóm lợi ích” không bị ngăn chặn có hiệu lực, hiệu quả, mà để nó phát triển mạnh, lan tràn, hoành hành, vai trò của nhà nước lành mạnh bị vô hiệu hóa, thì ở đó, tất yếu sẽ kéo theo, CNTB thân hữu xuất hiện và tồn tại, không thể tránh được, không thể khác được, dù có muốn hay không.

Lâu nay Đảng ta đã nhiều lần lưu ý nguy cơ chệch hướng. Nếu chệch hướng thì sẽ chệch đi đâu? Chắc không thể trở lại chế độ phong kiến, vì trình độ phát triển đã vượt qua. Cũng không thể chệch sang CNTB phát triển văn minh, vì trình độ phát triển của nước ta chưa đạt đến, và nếu vậy thì có ý kiến cho rằng cũng không đáng sợ, bởi chúng ta sẽ gần hơn với CNXH. Khả năng lớn nhất, hiện hữu, và cũng đáng sợ nhất, nguy hiểm nhất, là chệch hướng sang CNTB thân hữu, con đường nguy hại cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng nguy hại cho chế độ chính trị xã hội.

Trở lại hậu quả của “nhóm lợi ích”. Hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra là sự suy đồi về văn hóa, đạo đức xã hội, do hệ giá trị bị đảo lộn (đồng tiền và quyền lực chiếm vị trí trung tâm và cao nhất, trong khi nhân cách bị đẩy sang bên cạnh và xuống hàng thứ yếu) và do tha hóa quyền lực (tác nhân mạnh nhất). Việc phân hóa giàu – nghèo sẽ ngày càng lớn, tạo ra bất bình đẳng và mâu thuẫn xã hội. Hỏng văn hóa và gây ra mâu thuẫn xã hội thì hậu quả khôn lường, thâm sâu và lan tỏa rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến nền tảng xã hội và sức mạnh nội sinh của dân tộc.

Hậu quả thứ tư do “nhóm lợi ích” gây ra là làm lẫn lộn thật – giả, đúng – sai, khác nhau giữa lời nói và việc làm, đường lối đúng không vào được cuộc sống…; làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng cầm quyền và đối với nhà nước, tức là làm hỏng nền tảng chính trị, dẫn đến mất ổn định chính trị, mất sức mạnh của một quốc gia, và từ đó các thế lực xâm lăng từ bên ngoài có thể lợi dụng thời cơ để xâm lấn, chèn ép, dẫn đến nguy cơ mất độc lập, thậm chí là mất nước.

Hậu quả thứ năm do “nhóm lợi ích” gây ra là chính sách sử dụng cán bộ méo mó, phát triển nạn chạy chức chạy quyền, “buôn quan”, “buôn vua”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở “quan hệ, tiền tệ, hậu duệ”, chứ không phải sử dụng người có tài đức, làm hư hỏng đội ngũ cán bộ; là sự phát triển, sự gia tăng các hoạt động bè phái, mất đoàn kết nội bộ, phá vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền, từ đó dẫn đến Đảng cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, tan rã hoặc bị “nhóm lợi ích” thâu tóm làm thay đổi hoàn toàn về bản chất, không còn là Đảng phục vụ nhân dân, và nhà nước cũng hư hỏng, biến chất, không còn là nhà nước của dân, mà thành bộ máy cai trị, tham nhũng và bóc lột nhân dân, từ đó, nòng cốt chính trị đổ vỡ, bất ổn định chính trị từ bên trong.

Tình hình “nhóm lợi ích” ở Việt Nam đã đến mức độ nào? đang và sẽ đi về đâu? Như chúng ta đã biết, trước đây, trong lịch sử nhiều lần các triều đại phong kiến Việt Nam phải sụp đổ, kể cả có lúc phải chia cắt đất nước là do “nhóm lợi ích” gây nên. Ngày nay, tuy chưa có các công trình nghiên cứu cấp quốc gia một cách thật đầy đủ và khoa học về “lợi ích nhóm ở Việt Nam”, tuy nhiên, qua thông tin, qua dư luận xã hội, qua nghiên cứu của một số chuyên gia và cảm nhận của nhiều người, thì tình hình “lợi ích nhóm” đã khá nghiêm trọng, tương đối phổ biến, ở cấp nào cũng có, cấp cao hơn thì bệnh nặng hơn, ở lĩnh vực nào cũng có, kể cả ở những nơi mà xưa nay trong tiềm thức xã hội thường cho rằng đó là nơi luôn trang nghiêm, trong sạch. “Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng nghiêm trọng nhất, tham nhũng có tổ chức. Mặc dù Đảng và nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội vẫn diễn ra một tình hình rất đáng lo ngại là ở nước ta đang có nguy cơ chuyển biến dần dần sang “CNTB thân hữu”, do hoạt động của “nhóm lợi ích” gây nên. Thậm chí có ý kiến cho rằng nước ta đã rơi vào trong CNTB thân hữu rồi(?). Ở các nước, việc quản lý nhà nước và việc điều hành kinh tế tách biệt rành mạch, và ở họ doanh nghiệp nhà nước cũng ít hơn ta. Còn ở ta, với đặc điểm cơ quan nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước, vừa trực tiếp điều hành kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nhiều, lại yếu kém trong quản lý, không ít trường hợp đằng sau cái vỏ doanh nghiệp nhà nước là tư nhân núp bóng, vì vậy, đề phòng “lợi ích nhóm” ở Việt Nam còn phức tạp hơn các nước, nếu không đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả. Đây là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát triển lành mạnh của đất nước và sự tồn vong của chế độ theo định hướng XHCN (lành mạnh). Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào, tác động chi phối chính, làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho các nguy cơ khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất, cốt lõi nhất của cuộc đấu tranh về quan điểm lập trường; là trọng tâm trong chống “tự diễn biến”. Nếu Đảng và Nhà nước ta không ngăn chặn được hoạt động của “nhóm lợi ích”, để nó tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn ngày càng lớn hơn thì sự phát triển của đất nước bị nguy khốn và chế độ chính trị cũng biến chất, cũng thay đổi theo chiều hướng xấu, chắc chắn không còn là con đường XHCN chân chính nữa, mà sẽ là nơi phát triển CNTB thân hữu, mong muốn của hàng triệu đảng viên cộng sản và nhân dân đã chiến đấu và hy sinh xương máu sẽ trở nên xa vời và vô vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được, Đảng chân chính sẽ không còn và Nhà nước sẽ biến chất, dân tộc sẽ bị bóc lột, bị tước đoạt quyền lực và tài sản của cải, chế độ xã hội sẽ là một chế độ không có dân chủ và tự do, không có bình đẳng. Lúc này, hơn lúc nào hết, các cấp ủy và toàn Đảng phải nhận thức rõ nguy cơ và quyết tâm bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách mạng và bảo vệ chính Đảng ta, không để Đảng bị “nhóm lợi ích” và CNTB thân hữu thao túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.

Chống “lợi ích nhóm” là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, vì không rõ “chiến tuyến”, thường ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có ta và trong ta có nó, vừa là ta lại vừa là nó. Ngoài việc cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc tình hình và nguy cơ, cần thảo luận rộng rãi trong Đảng và trên công luận; Đảng và cả hệ thống chính trị phải kiên quyết đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, hết sức hệ trọng và cấp bách; tập thể lãnh đạo từ cấp cao nhất cần có quyết tâm chính trị và thật sự gương mẫu trong việc đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, sử dụng tất cả các biện pháp có thể; khẩn trương nghiên cứu ban hành bổ sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực (bằng quyền lực nhà nước, bằng quyền lực của nhân dân và bằng công luận); cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi, minh bạch thông tin và qui định rõ trách nhiệm giải trình, điều trần; tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho báo chí vào cuộc, cho nhân dân thực hiện quyền tham chính; đổi mới căn bản công tác cán bộ, thực hiện tranh cử trước nhân dân đối với các chức danh bầu cử và thi tuyển công khai đối với các chức vụ quản lý, đồng thời thực hiện cơ chế giám sát hoạt động, kết quả công việc, thi hành việc bãi miễn và thay đổi vị trí công tác của cán bộ khi xét thấy không có lợi cho cuộc đấu tranh chống “lợi ích nhóm”./.

TS. VŨ NGỌC HOÀNG (Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương)

(Theo Blog Nguyễn Trọng Tạo)

Tình hình căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian qua, đã thúc đẩy các mối quan hệ của Việt nam với các nước lớn thay đổi nhanh chóng đến mức kinh ngạc. Truyền thông báo chí hai nhà nước Việt nam - Trung quốc trong những ngày này, đã không ngần ngại trong việc kích động tinh thần chủ nghĩa dân tộc hơn bao giờ hết. Dư luận cho rằng, đó là hệ quả đồng thời là biểu hiện của việc Việt nam đang dần dần thay đổi chính sách đối ngoại của họ cho phù hợp với tình hình biến động.

Tình hình khu vực Biển Đông

Biển Đông theo cách gọi của Việt nam, hay Biển Tây theo cách gọi của Philippines, hoặc Biển Nam Hải theo cách gọi của Trung quốc v.v...  mà tên chung lâu nay ta thường thấy xuất hiện trên các bản đồ thế giới nói chung là Biển Nam Trung hoa (South China Sea). Đây là một biển ven lục địa có diện tích khoảng 3triệu 500 ngàn km², trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan.

Vùng biển này và các đảo, quần đảo trên khu vực Biển Đông không thuộc về chủ quyền của một quốc gia cụ thể nào đó, mà hiện nay đang là đối tượng tranh chấp về chủ quyền giữa 07 quốc gia trong vùng như Trung quốc, Đài loan, Philippines, Việt nam, Malayxia, Brunei  và Indonexia. Vì quyền lợi và lợi ích quốc gia của mình, nên hầu như các quốc gia kể trên đều tự khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định toàn bộ, hay phần lớn cũng như một số khu vực nhất định nào đó là chủ quyền bất khả xâm phạm của họ.

Trong cục diện ở Biển Đông hiện nay cho thấy, Trung quốc ngày càng tỏ ra hung hăng và hiếu chiến trong việc hoàn tất giấc mộng làm bá chủ ở Biển Đông thông qua cái gọi là đường Lưỡi Bò chủ quyền 9 đoạn. Với giấc mộng ấy, Trung quốc hy vọng sẽ chiếm tới 90% diện tích của Biển Đông, điều mà họ đã từng khẳng định đó là sân sau của họ. Việc gần đây, Trung quốc gấp rút gia tăng việc đảo hóa các bãi đá ngầm, để trở thành các đảo nhân tạo, tạo cơ sở thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) nhằm khống chế không chỉ vùng biển mà kể cả vùng trời tại một phần lớn khu vực Biển Đông. Điều đó cho thấy phía Trung quốc đã không chỉ vi pháp luật pháp quốc tế mà sẽ gây cản trở quyền tự do hàng hải, hàng không của các quốc gia khác.

Đó chính là lý do khiến các quốc gia như Hoa kỳ, Nhật bản, Australia... và kể cả Liên minh Châu Âu (EU) đã lớn tiếng cảnh báo chính sách bành trướng của Trung quốc. Không chỉ thế, các quốc gia đó cũng khẳng định việc sẽ tăng cường sự hiện diện về mặt quân sự của họ ở vùng biển này, để tuần tra nhằm đảm bảo an ninh hàng hải trên Biển Đông. Dư luận cho rằng, đã đến lúc Hoa kỳ và các nước phương Tây sẽ không ngồi yên để Trung quốc mặc sức lộng hành, nhằm bắt nạt các nước nhỏ ở khu vực và nếu Trung quốc không thay đổi về lập trường của họ đối với việc bồi đắp các đảo nhân tạo thì việc xung đột quân sự sẽ là điều khó có thể tránh khỏi.

Hiện nay, tham vọng của Trung quốc đã vấp phải phản ứng dữ dội của các nước nhỏ trong khu vực có liên quan đến chủ quyền trên Biển Đông. Trước hết là Philippines một quốc gia đã chịu nhiều ảnh hưởng của chính sách bành trướng trên Biển Đông của Trung quốc. Và gần đây nhất là Việt nam, một quốc gia cùng ý thức hệ cộng sản với Trung quốc, cũng đã đến lúc cho thấy họ đã gần mất hết kiên nhẫn với người đồng chí tốt của họ. Việt nam đã có những biểu hiện cho thấy ngày một xích lại gần Hoa kỳ hơn, mới nhất là chuyến thăm Việt nam của ông Ashton Carter Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và sắp tới là chuyến thăm Hoa kỳ của TBT Nguyễn Phú Trọng, một người trên danh nghĩa là người đứng đầu hệ thống chính quyền ở Việt nam.

Nếu chiến tranh trên Biển Đông xảy ra?

Việc nổ ra xung đột Trung -Mỹ trên Biển Đông là khó có thể xảy ra, hai bên sẽ hết sức kiềm chế. Đặc biệt là phía Trung quốc, một khi xung đột trên Biển Đông nếu xảy ra thì con đường vận chuyển hàng hóa quan trọng bậc nhất của Trung quốc sẽ tê liệt thì nền kinh tế khổng lồ của Trung quốc sẽ ngắc ngoải. Chính vì thế có thể thấy rằng, chính quyền Trung quốc chỉ già mồm, chứ không dám đánh. Đó là chưa kể đến tiềm lực quân sự của Trung quốc chưa thể địch lại riêng Hoa kỳ, chứ đâu cần đến các quốc gia khác vốn là đồng minh chiến lược của Hoa kỳ trong khu vực.

Mới đây, nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn đã có bài viết "Tam anh chiến Lữ Bố?", khi đề cập đến câu hỏi "Chiến tranh có thể xảy ra khi nào ?", tác giả đã có bình luận và đánh giá đáng chú ý như sau:

"Chiến tranh sẽ không xảy ra giữa Mỹ và đồng minh với TQ nếu TQ chiếm các đảo hiện do VN nắm giữ, trong trường hợp TQ cam kết bảo đảm quyền tự do hàng hải và hàng không trên khu vực Biển Đông. Đối với VN, có thể xảy ra vài đụng chạm, nhưng mọi việc sẽ ổn thỏa vì VN quá lệ thuộc vào TQ, về chính trị cũng như về kinh tế. Một tình huống «Malouines», chiến tranh giữa Anh và Argentine, về chủ quyền đảo Malouines, có thể xảy ra tương tự. Mỹ có thể sẽ cung cấp cho VN một số vũ khí « đặc biệt » để VN có thể hạ một số chiến hạm, tàu ngầm và máy bay của TQ, như trường hợp Pháp cung cấp cho Argentine máy bay Mirage và hỏa tiễn Exocet. Cuộc chiến Malouines Anh dành chiến thắng nhưng thiệt hại nặng vì các chiến hạm của Anh bị vũ khí của Pháp bắn chìm.

Chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra giữa Mỹ (và đồng minh) với TQ, nếu nước này cương quyết chiếm trọn Biển Đông và ngăn chặn việc tự do hàng hải (và hàng không). Không phải như trường hợp khi Nga chiếm Crimé và miền Đông Ukraine, việc này không đe dọa Tây phương. Biển Đông là đường huyết mạch cho kinh tế của Mỹ, Nhật, Đại Hàn và nhiều nước khác. Biển Đông vì vậy thuộc về phạm vi « không gian sinh tồn » của Mỹ, Nhật, Đại Hàn và các nước.

Nếu chiến tranh xảy ra trong tình huống này, nếu VN đứng về phía Mỹ, thì TQ có nhiều sác xuất thua trận. VN sẽ phụ trách cuộc chiến trên bộ, được Mỹ trợ giúp quân sự, sẽ đánh chiếm Nam Ninh, Khâm Châu, tiến qua phong tỏa eo biển Quỳnh Châu, cùng với Mỹ và Nhật chiếm đảo Hải Nam. Hải quân và không quân của TQ sẽ bị tiêu diệt. Chiến tranh sẽ sớm kết thúc. VN sẽ lấy lại HS và TS. Đây có thể gọi là thế « tam anh chiến Lữ Bố ». Lữ Bố là TQ. Nhị anh là Nhật và Mỹ. Còn lại là VN.

Nếu VN không đứng về phía nào, (theo như lập trường hiện nay), thì cuộc chiến sẽ hạn chế trên biển và trên không. Cuối cùng thì Mỹ và Nhật cũng thắng. Trường hợp này, các đảo HS và TS sẽ thuộc về phe chiến thắng (như là chiến lợi phẩm)."

Qua phân tích trên cho thấy, Việt nam cần khẩn trương chuẩn bị cho một lựa chọn phù hợp khi tình hình Biển Đông nổi sóng.

Sự lựa chọn của Việt nam

Chính sách đối ngoại của nhà nước Việt nam hiện nay, với lập trường và quan điểm dứt khoát là, Việt nam không liên minh hay liên kết với bất kỳ nước nào để chống lại bên thứ 3. Đó chính là lập trường "ba không" của nhà nước Việt Nam trong công tác đối ngoại. Nội dung của chính sách "ba không" cụ thể là, Việt Nam cam kết "không tham gia các liên minh quân sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước nào để chống nước khác". Đây là điều mà những người không ủng hộ chủ trương này cho là "chính sách ngoại giao du dây".

Những người này, là những người có xu hướng ủng hộ các giá trị tự do, dân chủ theo kiểu Mỹ, mà ở Việt nam người ta gọi là những người có chủ trương ủng hộ phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi hỏi cải cách chính trị để đưa Việt nam thoát khỏi chế độ cai trị độc đảng toàn trị theo đường lối cộng sản. Theo họ, Việt nam cần phải ngả hẳn, thậm chí là dựa hẳn vào Mỹ và cần thiết còn phải là một đồng minh chiến lược thông qua việc tham gia một liên minh quân sự trong đó có Mỹ để bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Đông.

Tuy vậy, tác giả bài viết tin rằng đa số những người có quan điểm nói trên, chưa nghĩ tới tình huống "Nếu như trước đây hay hiện nay Việt nam ngả hẳn hay dựa vào Hoa kỳ để chống lại Trung quốc, khi chưa xảy ra xung đột Biển Đông thì điều gì sẽ xảy ra?" Câu trả lời là, với một vị trí biên giới tiếp giáp với Trung quốc, Lào và Campuchia, nhất là trong bối cảnh Trung quốc đã nắm chắc trong tay con bài Campuchia và đang dần thôn tính Lào, thì liệu Việt nam khi đó có đứng vững với nạn phỉ hay sự bất mã của các sắc tộc ít người ở vùng biên giới của mình hay không? Đó là chưa kể đến các chính sách trả đũa về kinh tế và trên nhiều lĩnh vực khác, trong lúc nền kinh tế Việt nam phần lớn là dựa vào Trung quốc như hiện nay.

Chắc hẳn, bài học về chính sách đối đầu với Trung quốc giai đoạn lịch sử 1975-1990, trước và sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 xảy ra. Từ đó dẫn tới những hậu quả về việc mất ổn định về mọi mặt kinh tế- xã hội chúng ta chưa thể nào quên. Hay bài học xung đột giữa chính quyền Myanmar với sắc tộc thiểu số ở biên giới Trung quốc - Myanmar gần đây, đang có nguy cơ chuyển thành xung đột giữa quân đội hai nước. Đừng quên Trung quốc là "vua" kích động các sắc tộc thiểu số để gây bất ổn và với sức mạnh kinh tế có trong tay, thì họ có thể hành xử với Việt nam các kiểu, nếu như họ muốn.

Tuy nhiên, người ta thường nói mọi lý thuyết về chính trị, an ninh nhiều khi cũng là màu xám và cái đó không phải là bất biến. Một khi môi trường an ninh thay đổi thì khi đó chính sách đối ngoại của Việt nam chắc chắn sẽ phải thay đổi, nghĩa là lúc đó chính sách "ba không" của Việt nam sẽ không đáp ứng được đòi hỏi nếu như khi tình hình Biển Đông xảy ra xung đột giữa các bên Trung - Nga và một bên là các nước lớn còn lại đứng đầu là Mỹ. Lúc đó, Việt nam không có bất kể lựa chọn lừng khừng nào khác, mà dứt khoát phải lựa chọn chỗ đứng một bên cho mình.

Tuy điều đó còn đang ở phía trước, song cái cần là sự chuẩn bị và tính toán trước của lực lượng đấu tranh dân chủ ở Việt nam, để khi tình huống xảy ra sẽ không phải bất ngờ và ở thế bị động. Trường hợp vào thời điểm đó, nếu chính quyền Việt nam hiện tại cố ngả theo Trung quốc, thì đó là hồng phúc cho dân tộc, vì chính quyền ấy sẽ không thể tồn tại và tát yếu sẽ sụp đổ. Thay vào đó là một chính quyền thân phương Tây. Đây là lý do giải thích vì sao những người lãnh đạo Việt nam hiện nay tự nhiên lại tỏ ra thân thiện và nhân nhượng hơn với Hoa kỳ về một số điểm vào thời điểm này.

Kết

Được biết, bên lề Hội nghị Shangri-La lần thứ 14 vừa kết thúc tại Singapore, ông Ashton Carter Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ có nói với báo chí nói rằng “Tại Châu Á, vẫn có môt số nước nghiêng về phía Trung Quốc, một số khác thì nghiêng về phía Hoa Kỳ, nhưng hầu hết thì không muốn phải có một sự lựa chọn dứt khoát nào, và tôi nghĩ rằng điều này cần thiết để giữ sự đa dạng trong quan hệ ngoại giao ngay tại khu vực, trong thời gian tới”. Đây là một phát biểu đáng chú ý. Điều này cho thấy, tại thời điểm này chính sách ngoại giao "ba không" của Việt nam dưới con mắt của một chính khách Hoa kỳ là phù hợp và có thể chấp nhận được. Có ý kiến cho rằng, chính sách "ba không" này của Việt nam mang hơi hướng của chính sách ngoại giao cây tre của Thái lan (!?), với ý nghĩa cái đó có thể ngả ngiêng theo chiều gió, nhưng không bao giờ đổ, để giữ gìn lợi ích quốc gia là trên hết.

Trong thế kỷ XX vừa qua, người Việt nam ở cả hai phía, Cộng hòa và cả Cộng sản đã nhiều lần đã phải trả giá đắt cho chính sách ngoại giao dựa vào một bên để chống một bên trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Đặc biệt là những người sống dưới chế độ VNCH, đã nhiều lần chứng kiến người Mỹ phản bội, thậm chí là bỏ rơi họ. Như trong vụ đảo chính và hạ sát Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963 và Hiệp định Paris về lập lại hòa bình ở Việt nam và những người cộng sản miền Bắc cũng bị Nga, Tàu đối xử không kém.

Và có lẽ đấy là những bài học về chính sách ngoại giao mà những người quan tâm đến chính trị cần phải ghi nhớ, chứ xin đừng suy nghĩ theo cảm tính và ý thích của cá nhân mình.

Ngày 04 tháng 06 năm 2015

© Kami

(Blog RFA)

Khoảng mấy chục ngày trước báo chí Việt Nam còn có nhiều bài viết ca ngợi quan hệ Việt Trung tốt đẹp, hữu nghị. Điển hình mới nhất cho giọng điệu này là ở chuyến đi của phái đoàn cao cấp Việt Nam tới Bắc Kinh do tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cầm đầu cùng với 4 uỷ viên bộ chính trị nữa đang đảm trách vị trí trọng yếu là giữ chức vụ chủ chốt bảo vệ chế độ.

Những vị trí chủ chốt đó là công an, quân đội, tuyên giáo.

Chế độ cộng sản Việt Nam được tồn tại bởi chính ba trụ cột này. Công việc của tuyên giáo là nhồi nhét vào đầu người dân những điều dối trá, xuyên tạc có lợi cho chế độ tồn tại. Việc nhồi nhét này được ban tuyên giáo thực hiện bằng những chỉ đạo, mênh lệnh xuống cho báo chí, truyền hình và các cơ sở tuyên giáo các cấp địa phương, các bộ ngành.

Công an hỗ trợ đắc lực bằng cách tìm tòi phát hiện và bắt bớ những người phản biện lại những luận điệu của ban tuyên giáo , quy kết họ là chống phá chế độ, xuyên tạc chủ trương đường lối của nhà nước.

Quân đội đứng đằng sau công an, sẵn sàng can thiệp và hỗ trợ cho công an trong những cuộc trấn áp biểu tình có quy mô lớn như các vụ từng xảy ra ở Văn Giang, Con Cuông, Tam Toà hay Mường Nhé, Tây Nguyên. Đồng thời quân đội cũng hỗ trợ cho tuyên giáo trong việc tuyên truyền những điều sai lạc , thiếu khách quan về tình hình thế giới và xã hội Việt Nam.

Không khó khăn gì để nhận thấy rằng những trụ cột này đều chung điểm giống nhau là tuyên truyền dối trá và bạo lực trấn áp. Bởi vì thế, những bài báo hay phóng sự truyền hình của Việt Nam trong bối cảnh quan hệ Việt Trung, tình hình biển Đông, quan hệ Việt Mỹ đều mang âm sắc của sự lừa dối và mùi bạo lực của sự đe doạ.

Các bài báo đều có mẫu số chung như mở đầu ca ngợi quan hệ Việt Trung, thành quả này nọ rồi tiếp đến phê phán những ai chỉ trích mối quan hệ này, kết là quy chụp tội những người phê phán mối quan hệ này là muốn gây bất ổn định chính trị, gây mâu thuẫn quan hệ ngoại giao láng giềng hữu nghi...sau cùng là đe doạ bắt bớ.

Điển hình cho mẫu người phê phán quan hệ Việt Trung phải chịu tù đày là bloger Điếu Cày tức Nguyễn Văn Hải khi có hành động tích cực kêu gọi phản đối Việt Nam quan hệ với Trung Quốc qua việc biểu tình.

Tương tự như thế, trong quan hệ Việt Mỹ, các bài báo của Việt Nam mở đầu khơi lại cuộc chiến năm 1975. kể lể những hình ảnh chết chóc, vẽ ra những âm mưu thâm độc của Mỹ muốn phá hoại đời sống nhân dân Việt Nam...rồi kết cũng như mọi khi là đe doạ ai kêu gọi Việt Nam phải thân Mỹ là kêu gọi việc làm bán nước, tay sai cho Mỹ. Cần phải xử lý nghiêm tức bắt bớ bỏ tù.

Điển hình cho mẫu người kêu gọi Việt Nam phải liên minh với Mỹ rút cục bị kết án tù là tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ.

Nhưng cho đến những ngày gần đây, việc Trung Quốc gia tăng xây dựng căn cứ quân sự, bồi đắp nhân tạo đảo để làm căn cứ xác nhận chủ quyền. Báo chí Việt Nam bắt buộc phải chuyển hướng và có những luận điệu phản đối gay gắt. Sở dĩ nhắc đến từ '' bắt buộc '' vì ban tuyên giáo Việt Nam không bao giờ muốn lộ ra chuyện Trung Quốc xây đắp đảo, nhằm che đậy cho tuyên truyền lừa đảo bấy lâu nay bị phơi bày cho dân chúng rằng quan hệ Việt Trung là đang tốt đẹp, hữu nghị, hai bên cùng có lợi

Nhưng người Mỹ đã đưa phóng viên CNN lên phi cơ quân sự, bay đến vùng Trung Quốc có hành vi phi pháp công ước quốc tế, để ghi hình lại những hành động xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc cho cả thế giới chứng kiến. Việt Nam dẫu có muốn che đậy cũng không thể bàn tay che đậy cả thế giới. Họ đành phải nương theo và chấp nhận để báo chí Việt Nam lên tiếng trong trường hợp này.

Trong cái gọi là '' bắt buộc '' phải lên tiếng ấy của báo chí Việt Nam, nhiều tờ báo , nhiều tác giả đã có những bài báo phản án quan điểm chính xác, chân thực về thời cuộc, về tình hình chủ quyền biển đảo, quan hệ ngoại giao Việt Nam với các cường quốc.

Đi đầu là những tờ báo như giaoduc , thanh niên, vnexpress. vietnamnet, motthegioi....

Đặc biệt tờ báo giaoduc.net.vn đã có những bài rất thẳng thắn phơi bày dã tâm của Trung Quốc khi thôn tính chủ quyền Việt Nam, vạch ra luận điều khích bác gây mâu thuẫn quan hệ Việt Mỹ. Trong bài báo số ra ngày 3/6/2015 của tác giả Hồng Thuỳ đăng trên báo giaoduc có nhan đề

Thời báo Hoàn Cầu cau cú bình luận xuyên tạc quan hệ Việt Mỹ, Việt Trung.


Tác giả đã viết thẳng vào bản chất vấn đề lịch sử cũng như đương đại.

'' Lý do được Thời báo Hoàn Cầu đưa ra là: "Việt Nam và Mỹ đánh nhau mười mấy năm, cả hai phía đều tổn thất nghiêm trọng. Mỹ thương vong mấy trăm ngàn quân, Việt Nam cũng mất đi 3 triệu sinh mạng. Những trận oanh tạc của máy bay ném bom B-52 trở thành ký ức không bao giờ quên của người Việt Nam. Ngày nay, Việt Nam là một quốc gia chủ nghĩa xã hội, Mỹ bỗng nhiên xuất hiện vừa tặng vũ khí, vừa chống lưng, xã hội Việt Nam không thể không đặt câu hỏi, Hoa Kỳ không ngây thơ như thế!" 

Sau khi trích dẫn những lời khích động chia rẽ quan hệ Việt Mỹ của tờ Hoàn Cầu, tác giả đã thẳng thắn đáp trả rất mạnh mẽ đúng lý, đúng tình như sau .

'' Đúng là Hoa Kỳ không ngây thơ, và người Việt Nam cũng không ngây thơ. Người Việt Nam không quên quá khứ, nhưng quá khứ ấy không chỉ có 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, mà còn cả ngàn năm Bắc thuộc, gần nhất cũng là những cuộc chiến như năm 1979 Trung Quốc xua quân xâm lược tàn sát hàng ngàn đồng bào mình và xâm lược, thôn tính Hoàng Sa năm 1974, 6 bãi đá Trường Sa năm 1988 - PV.''

Bài báo rất sòng phẳng và khách quan. Một bài báo như vậy trước đây rất hiếm khi được xuất hiện trên truyền thông Việt Nam.

Cũng trên tờ báo này, một bài báo khác có số ra cùng ngày, của một tác giả khác có tên là Nguyễn Hường, đã có một bài viết phơi bày động cơ của Trung Quốc khi cố tình gây hấn căng thằng trên biển Đông. Bài viết có nhan đề.

Trung Quốc leo thang ở biển Đông để tránh bất mãn trong nước.


Bài viết có đoạn như sau

''Chính phủ và truyền thông Trung Quốc gần đây cũng tích cực hơn trong việc tuyên truyền về các tuyên bố chủ quyền sai trái của mình. Thậm chí, tờ Thời báo Hoàn cầu còn tuyên bố rằng bất kỳ nỗ lực nào của Mỹ nhằm ngăn cản âm mưu bá chủ của Bắc Kinh ở Biển Đông chắc chắn sẽ kết thúc trong chiến tranh.

Theo nhận định của Business Insider, những tuyên bố "sặc mùi" dân tộc chủ nghĩa trên của Bắc Kinh rõ ràng là phản ứng để đánh lạc hướng chú ý về việc nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc. ''

Dã tâm của Trung Quốc không những được báo chí Việt Nam phơi bày bằng những bài viết mà còn được chuyển tải bằng hình ảnh, clip. Tờ báo Thanh Niên đã đưa lên youtube một clip cho thấy tàu cảnh sát Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu cứu nạn của Việt Nam đang trên đường chở ngư dân bị bệnh nặng về bờ cấp cứu.


Trước những bài báo, clip mà các tờ báo, nhà báo trên đưa ra trước công luận. Có thể thấy rằng chuyện lừa bịp, bưng bít và xuyên tạc thông tin của ban tuyên giáo Trung ương bây giờ khó có thể dễ dàng như trước. Bởi nếu không có báo chí Việt Nam phơi bay thì báo chí quốc tế cũng phơi bày. Bởi ngay trong chính những tờ báo, đội ngũ nhà báo mà ban tuyên giáo tư tưởng Việt Nam quản lý cũng có nhiều những con người có lương tri, có can đảm, có tình yêu với đất nước. Những đức tính ấy luôn cuồn cuộn mạnh mẽ như mạch nước ngầm, chỉ cần có cơ hội là phun trào cho nhân dân thấy sự thật về quan hệ Việt Trung hữu nghị như thế nào.

Đây đó vẫn lạc lõng những luận điệu của dư luận viên thuộc ban tuyên giáo Việt Nam về quan hệ hữu nghị Việt Trung, cảnh giác âm mưu của Mỹ. Trên tờ báo quân đội nhân dân vẫn liên tiếp đưa ra những vụ việc trên thế giới để ám chỉ chính phủ Mỹ đầy những âm mưu đen tối.

Nhưng dù có thế thật như chúng nói. Thì Mỹ âm mưu ở tận đâu chỗ Đông Âu, Trung Đông xa vời nào đó, còn Trung Quốc thì âm mưu ngay trên đất chúng ta, trên biển chúng ta và đang sát hại người dân chúng ta . Đó mới là điều chúng ta cần nói bây giờ.

Xin cám ơn những người đã cất tiếng nói sớm trong sự cô đơn như Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ cùng nhiều người khác. Cũng như cám ơn các bạn phóng viên của các tờ báo giaoduc, thanh nien, vnexpress, vietnamnet ngày hôm nay đã cất tiếng nói thẳng thắn phơi bày dã tâm của Trung Quốc với chủ quyền biển đảo Việt Nam và âm mưu muốn cô lập Việt Nam khỏi quan hệ quốc tế. Tuy rằng không được sớm, nhưng nhân dân biết lỗi không thuộc về các bạn. 

Người Buôn Gió

(Blog Người Buôn Gió)

Cán bộ đi thăm dân (ảnh minh họa)
Cán bộ đi thăm dân (ảnh minh họa). Files photos
Trong báo cáo gửi QH, Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình cho rằng: mức lương hiện hành của Bộ trưởng hiện nay chỉ vào khoảng 14,4 triệu đồng/tháng.

Dư luận xã hội đặt câu hỏi, vậy Bộ trưởng VN sống bằng gì?

Nghịch lý của đồng lương và đời sống

Một điều khá nghịch lý ở VN, đó là tiền lương hầu hết là không đủ trang trải các nhu cầu cuộc sống của người lao động, đó là điều hết sức phổ biến và được coi là chuyện bình thường.

Điều đó xảy ra với mọi đối tượng làm công ăn lương của nhà nước trong toàn xã hội, điều đáng ngạc nhiên là cho dù  người đó là các chính khách hay Bộ trưởng.

Mới đây, trong báo cáo gửi QH, Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình cho rằng mức lương hiện hành của bộ trưởng hiện nay chỉ vào khoảng 14,4 triệu đồng/tháng.

Bình luận về vấn đề này, từ Hà nội Nhà báo Nguyễn Vũ Bình, nguyên Biên tập viên của Tạp chí Cộng sản cho biết:

“Phải nói là cái mức lương 14,4 triệu đồng này, nếu một gia đình Bộ trưởng có vợ và 2 đứa con với mức tiêu của chức vụ Bộ trưởng hiện tại thì số tiền này chỉ đủ cho họ ăn sáng. Tức là mỗi người bình quân hơn 3 triệu. Nhưng thực chất số tiền như thế chỉ đủ cho một người trong nhà họ ăn sáng mà thôi.”

Theo báo Dân trí, ĐBQH Dương Trung Quốc cho rằng “Hiện tại, không có ai sống bằng đồng lương thật, kể cả người lao động bình thường cho đến những quan chức ở cấp bậc cao… Còn tôi thấy chắc chắn một điều là thu nhập của các Bộ trưởng rất cao, cứ trông cách sống của họ là biết”
Phải nói là cái mức lương 14,4 triệu đồng này, nếu một gia đình Bộ trưởng có vợ và 2 đứa con với mức tiêu của chức vụ Bộ trưởng hiện tại thì số tiền này chỉ đủ cho họ ăn sáng. - Nhà báo Nguyễn Vũ Bình
Điều đó cũng trùng hợp với dư luận khi cho rằng, trên thực tế cuộc sống của những người là Bộ trưởng hay tương đương rất cao, giàu sang tột đỉnh. Họ có đầy đủ nhà lầu xe hơi, biệt thự, con cái du học nước ngoài ..., không thua gì các nhà giàu ở các nước tư bản.

Đây là một sự khác biệt rất cơ bản giữa thời bao cấp và thời buổi kinh tế thị trường hiện nay. TS. Trần Nhơn, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi cho biết cuộc sống của các Bộ trưởng thời bao cấp đã sống ra sao. Ông nói với chúng tôi:
Xe các lãnh đạo chờ trước quán ăn
Xe các lãnh đạo chờ trước quán ăn
“Theo tôi hồi xưa, cái nhu cầu cho một cán bộ không cao lắm, những tiêu chuẩn bao cấp, qua tem phiếu và các chế độ cho các cấp lãnh đạo là đủ, không có cần chi phí nào khác. Do không có nhu cầu nên nó không có đòi hỏi tham nhũng gì cả. Còn việc cho các con em các bộ cao cấp đi học nước ngoài, thì qua bên đó họ cũng được học bổng, nên gia đình cũng không tốn kém gì cả.”

Theo VnEconomy, TS. Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, ĐBQH đã nói thẳng về thu nhập của các Bộ trưởng, ông cho biết: “Nếu nói mức lương của Bộ trưởng hiện nay khó sống thì rất vô cùng. Thực tế thì không ai khó sống, mà lại sống rất đoàng hoàng…Thu nhập của Bộ trưởng cao gấp nghìn lần mức lương”.

100% ai cũng biết

Trả lời câu hỏi, vậy hiện nay các Bộ trưởng (và chức vụ tương đương) đã và đang sống bằng nguồn thu nhập nào?
Hiện tại, không có ai sống bằng đồng lương thật, kể cả người lao động bình thường cho đến những quan chức ở cấp bậc cao… Còn tôi thấy chắc chắn một điều là thu nhập của các Bộ trưởng rất cao, cứ trông cách sống của họ là biết - ĐBQH Dương Trung Quốc
Bằng một thái độ thẳng thắn, Nhà báo Nguyễn Vũ Bình cho chúng tôi biết nhìn nhận của ông, ông nói:

“Tiền của họ có được chủ yếu là do tham nhũng, do chấm phẩy %, do nhận đút lót, rồi việc lên lương lên chức của cấp dưới… Đó là các khoản thu nhập từ tham nhũng dồn đến Bộ trưởng và từ Bộ trưởng nó sẽ tiếp tục dồn lên Bộ Chính trị. Đó là cái điều mà dân VN gần như 100% ai cũng biết, do vậy có nói kiểu gì đi chăng nữa thì 100% dân VN họ cũng không tin. Chắc chắn là họ sống được là nhờ tham nhũng”

Khi trả lời qua điện thoại, TS Trần Nhơn đã từ chối trả lời câu hỏi này của chúng tôi, tuy vậy ngay sau đó qua e.mail, ông cho chúng tôi biết thêm:

“Đó là chưa kể không ít các đương sự phải chạy tốn rất nhiều tiền để đầu tư vào các chiếc ghế đó. Nên khi được ngồi vào chiếc ghế ấy, họ phải nghĩ ngay đến việc "hoàn vốn đầu tư".”

Khi được hỏi, sự khác biệt cơ bản giữa thời kinh tế bao cấp trước kia và thời kinh tế thị trường hiện nay, khi mọi chi tiêu Bộ trưởng (kể cả tiền tham nhũng) vẫn dùng từ nguồn từ ngân sách?

Nhà báo Nguyễn Vũ Bình thừa nhận và cho rằng, về bản chất thì giống nhau, kể cả tiền và vật chất mà các Bộ trưởng có được từ tham nhũng cũng là các đồng tiền thuế của dân. Ông cho biết:

“Khác nhau ở chỗ là tiền, thời bao cấp thì không có tiền hoặc ít tiền. Nhưng thời này thì nhiều tiền vì có nhiều dự án, bây giờ là kinh tế thị trường rồi, thì chủ yếu người ta dùng tiền để giao dịch, vì nó đơn giản hơn. Thời trước thì không có tiền thì họ chủ yếu dựa vào các tiêu chuẩn ưu đãi. Cái khác nhau cơ bản là như thế.”

Trả lời câu hỏi, nên có giải pháp hợp lý thế nào để Bộ trưởng có thể sống bằng thu nhập chính đáng của họ, mà không phải tham nhũng như hiện nay?

Trong trường hợp đó, lương ko biết phải tăng lên mấy chục lần cho đủ, để khắc phục cơ bản tình hình này, chỉ  có công khai hóa, minh bạch mọi khâu tuyển chọn và sử dụng cán bộ. TS. Trần Nhơn đề xuất suy nghĩ của ông, ông nói:

“Trong một thể chế, cơ chế tài chính mà ông không cho nó cân bằng thì nó sẽ tự động cân bằng, nhưng cái tự động đó sẽ sinh ra tiêu cực, sẽ sinh ra tham nhũng. Nên theo tôi bây giờ lương Bộ trưởng, nếu để họ không tham nhũng, thì phải ở mức 20 đô la Mỹ/giờ làm việc. Tức là cỡ gấp 6-7 lần mức lương 15 triệu bây giờ.”
Tiền của họ có được chủ yếu là do tham nhũng, do chấm phẩy %, do nhận đút lót, rồi việc lên lương lên chức của cấp dưới… Đó là các khoản thu nhập từ tham nhũng dồn đến Bộ trưởng và từ Bộ trưởng nó sẽ tiếp tục dồn lên Bộ Chính trị. Đó là cái điều mà dân VN gần như 100% ai cũng biết - Nhà báo Nguyễn Vũ Bình
Không thể dùng các chính sách kinh tế hay các ưu đãi về thu nhập đối với các Bộ trưởng của VN, vì các Bộ trưởng VN hiện đã đi qua xa, họ không đơn giản như chúng ta nghĩ. Nhà  báo Nguyễn Vũ Bình khẳng định:

“Bây giờ Bộ trưởng VN có thu nhập gấp hàng trăm lần lương của Bộ trưởng Singapore cơ, thì bây giờ lại dùng tiền lương để bảo họ đừng tham nhũng nữa thì không được đâu. Vấn đề là phải có một cơ chế giám sát độc lập, tức là các đảng phái giám sát nhau, hoặc người dân tham gia giám sát nhà nước và hệ thống công quyền. Phải có những thiết chế như thế thì mới có thể giám sát được. Chứ còn còn có liên quan, còn chức còn quyền, còn quyền lợi liên quan đến nhà nước thì làm sao mà chống được? Nó phải riêng biệt ra và không liên quan. ”

TS. Trần Nhơn đã đề xuất giải pháp chung, ông cho biết:

“Chống tham nhũng thì phải minh bạch hóa, công khai hóa tức là một khi họ định tham nhũng thì đã lộ ra ngay, thông tin đã có trên báo chí. Nếu như thế thì họ sẽ không dám tham nhũng, vì nếu ông bị lộ ra thì mọi quyền lợi sẽ mất hết. Nhưng mà phải làm cho họ không dám tham nhũng, không thể tham nhũng vì có cơ chế minh bạch và có nhiều kênh kiểm tra.”

Dư luận cho rằng, không chỉ đối với các Bộ trưởng hay các chính khách khác, mà kể cả toàn bộ viên chức nhà nước, nếu như có được mức lương thỏa đáng thì họ sẽ yên tâm làm việc, có trách nhiệm hơn khi thấy cống hiến của mình được ghi nhận. Khi đó họ sẽ không cần phải vòi vĩnh hay tìm mọi cách tham nhũng để đảm bảo chi phí cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ. Đó cũng là cách để giữ và tôn trọng tư cách làm người cho họ.

Anh Vũ, thông tín viên RFA 
2015-06-02

(RFA)

(Thư ngỏ gửi trang Blog “Dân làm báo”)

Thường thì ít ai tranh cãi về các nội dung trên các trang Blog cá nhân, vì đó là nơi tự do bộc lộ ý riêng của từng người hay nhóm người. Tuy nhiên trang Blog của quý vị có khá nhiều độc giả thuộc một số tầng lớp nào đó, nên các bài viết trên trang Blog "Dân làm báo" của quý vị cũng có sức lan truyền thông tin nhất định. Vì vậy thật là đáng tiếc nếu quý vị đăng những bài hoàn toàn bịa đặt và dựng chuyện nhảm nhí.

Vừa qua, trên trang mạng ”Dân làm báo “ của quý vị xuất hiện một chuỗi  bài viết ký tên  Huỳnh Tâm  tập trung nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thật là vô nghĩa và vô ích nếu bàn luận về nội dung những bài này.

Tuy nhiên lý do chúng tôi viết thư này là vì trong bài số 22: 
đã trắng trợn bịa đặt và dựng chuyện quá bỉ ổi, liên quan đến những người viết thư này, như lời mở đầu của bài đã viết "…Những tuyên bố của gián điệp Lư Sơn cho thấy đảng cộng sản đã theo khuôn phép mệnh lệnh hay tín hiệu báo trước dân tộc Việt Nam chuẩn bị bước vào thời kỳ nhất định năm 2020 sẽ là một chư hầu tốt của Trung Cộng..." .

Gián điệp Lư Sơn ở đây mà Huỳnh Tâm đã viết là sự kiện tồn tại (trường) Lư Sơn Tử Đệ Học Hiệu và (trường) Quế Lâm Dục Tài Học Hiệu . Huỳnh Tâm đã vu khống những người đã từng học tập tại các Trường đó một cách hết sức thô bỉ. Người này vờ vịt dựa vào một số hình ảnh, danh sách bịa đặt lung tung để kết luận: Đây là nơi đào tạo gián điệp cho Trung Quốc từ những năm 50 thế kỷ trước (!?) < Đọc thêm ở đây >. / Cũng đọc ở đây  .
Mặc dù luận điệu của kẻ xuyên tạc tỏ ra rất ngô nghê, nhố nhăng, thật không xứng tầm để đối thoại, nhưng thiết nghĩ không vạch rõ sự bịa đặt, lừa đảo của những người viết và kẻ chống lưng của họ trước dư luận, e rằng cũng có thể có những  hiểu lầm đáng tiếc. Bởi vậy, chúng tôi- một số cựu học sinh trường Thiếu nhi VN tại Quế Lâm, Trung Quốc ( 1951-1958-tức là  Lư Sơn Tử Đệ và Quế Lâm Dục Tài Học Hiệu trong bài viết của Huỳnh Tâm) thấy cần lên tiếng nói rõ sự thật với  một số ý chính sau đây (do khuôn khổ bài viết nên không nêu hết):

1.  Sự bịa đặt không giới hạn

-   Về tên trường :  Trong quá trình xuyên tạc, Huỳnh Tâm chỉ biết bịa ra cái tên : “Trường thiếu niên VN Lư Sơn”. Trong thực tế, chưa từng tồn tại cái trường như thế. Chỉ có một trường duy nhất được CT Hồ Chí Minh và Chính phủ VN đề nghị phía Trung Quốc cho mượn địa điểm để đưa một số học sinh VN sang học văn hóa thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp . Lúc đầu phía Trung Quốc đã chọn núi Lư Sơn, danh thắng ở tỉnh Giang Tây để làm nơi đặt trường , gọi là Lư Sơn Tử Đệ Học Hiệu, nhưng do khí hậu quá lạnh, học sinh VN không chiụ nổi. Sau một mùa đông, đành chuyển xuống Quế Lâm ( Quảng Tây )  . Từ đây xuất hiện một trường toàn  học sinh VN; phía Trung Quốc gọi là “ Quế Lâm dục tài học hiệu “. Còn phía VN chính thức gọi là “ Trường thiếu  nhi VN Quế Lâm “( 1951-1957). Như đã thấy, ngay cái tên của nhà trương bị   Huỳnh Tâm đem ra bôi nhọ cũng đã sai , vậy cũng dễ hiểu khi những điều viết ra đều là ..hoang tưởng.

-  Thí dụ : Huỳnh Tâm nói bừa rằng “ Trừơng Thiếu niên VN Lư Sơn, được thành lập năm 1951. Ngày 15 tháng 10 năm 1959, Hồ Chí Minh bí mật viếng thăm trường này”. Sự thật là trường Lư Sơn chỉ tồn tại trong thời gian 6 tháng của năm 1953, vậy thì làm sao CT  Hồ  Chí Minh lại đến thăm trường vào năm 1959 được ? Và sự thật là CT  Hồ  Chí Minh chưa một lần nào đến thăm trường TNVN Lư Sơn và Quế Lâm.  Hồ Chí Minh chỉ duy nhất có một lần đến thăm khu học xá Nam Ninh vào cuối năm 1957 trong thời gian khoảng hơn một giờ nhân dịp đi dự Hội nghị các Đảng CS và công nhân Quốc tế.


- Về tổ chức đào tạo, Huỳnh Tâm cho rằng do Trung Quốc mở trường này để đào tạo gián điệp cho Trung Quốc. Sự thật là toàn bộ chương trình học tập là theo chương trình của bộ giáo dục VN. Học tập và giao lưu hoàn toàn bằng tiếng Việt, giáo viên giảng dạy văn hóa là các thày cô giáo người Việt được bộ Giáo dục chọn lọc trong số cán bộ kháng chiến cử sang. Ngưới Trung Quốc chỉ lo phần hậu cần, y tế; giáo viên Trung Quốc chỉ dạy môn tiếng Hoa như một ngoại ngữ và một số môn ngoại khóa (Múa, Thể dục, Thể Thao..) ngay cả môn âm nhạc và họa cũng do các thày cô giáo VN đảm nhận. Các lớp học 100% là học sinh VN, sống cách biệt trong ký túc xá riêng.

Như vậy, xét về chương trình, nội dung và giáo viên đứng lớp, các trường TNVN Lư Sơn, Quế Lâm là TRƯỜNG VIỆT NAM gửi nhờ địa điểm ở Trung Quốc hoàn toàn không phải trường do Trung Quốc mở ra và đào tạo.

-Trong bản danh sách 174” gián điệp xuất sắc và năng động nhất”  Huỳnh Tâm  đã cố tình liệt kê đủ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước VN, trong khi họ chưa hề bước chân đến  trường TNVN Lư Sơn-Quế Lâm.

- Những ví dụ điển hình:  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã từng học ở trường này và đã có dịp quay về trường cũ , nhưng vào năm 1951, ông Dũng mới chỉ 02 tuổi!. 
Nực cười là lại có cả một số tên người Trung Quốc đặc biệt có tên Cao Đức Khả , người này có hai nhiệm kỳ làm tổng lãnh sự Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh.
            
Thậm chí đến Cụ Nguyễn Xiển, một trí thức lớn,( sinh năm 1907), nhà khoa học về Khí tượng –Thủy văn, tốt nghiệp ở Pháp trước 1945, nguyên Tổng thư ký Đảng Xã hội VN, cũng đã học trường TNVN Quế lâm năm 1953!

-Về hình thức trình bày, rõ ràng đây là một sản phẩm quá ngô nghê, thấp kém.. Văn viết thì ngố tầu,  những đoạn dich chữ Hán ra Việt  thì cẩu thả  không chịu nổi, giống như là dịch bằng Google Trans rồi hiệu đính vội vàng, bừa bãi do  không thạo tiếng Việt.. Chắc có lẽ nhóm này chủ quan , tưởng dàn dựng ghép nối tư liệu có vẻ như thật thì ai cũng tin, nên cứ tiếp tục làm tới.

-Về tư liệu, tất cả các ảnh liên quan đến CT Hồ Chí Minh với Trường Lư Sơn Quế Lâm là hoàn toàn gán ghép. Không có ảnh nào trong đó liên quan đến trường cũng như học sinh của trường. Nhặt nhạnh những ảnh đâu đó có hình Hồ Chí Minh rồi đưa vào để chứng minh cho nội dung bài viết bịa đặt là một thủ thuật lừa đảo có chủ tâm !

2. Cao thủ về lừa đảo dư luận

Khi tìm hiểu thêm thì mới rõ là trên Blog này ngoài bài về Trường Lư Sơn-Quế Lâm tác giả Huỳnh Tâm đã có đến hơn 22 bài liên tiếp cùng chủ đề về CT Hồ Chí Minh. Đọc 22 kỳ khác nhau trong loạt bài của Huỳnh Tâm thì mỗi kỳ một văn phong khác nhau,( đa phần đều  ngớ ngẩn), tiếng Việt thì đều ngô nghê.Tất cả đều cùng một chủ đề định sẵn với phương thức vu cáo bịa đặt để lừa bịp ly gián xã hội VN. Vì vậy nhiều cựu học sinh ngờ rằng  Huỳnh Tâm không chắc đã là một tác giả thật sự mà chỉ là một cái tên của một nhóm dựng nên bởi ngoại bang (không loại trừ có gốc Trung Quốc)  biết sơ sơ tiếng Việt, thực hiện mưu đồ chính trị của ngoại bang để phá hoại đất nước và dân tộc Việt Nam, đi đến thôn tính VN . Bởi xét về mặt quan hệ cá nhân, những người từng học ở trương TNVN Lư Sơn-Quế Lâm không có lý do gì gây thù oán với một người có tên Huỳnh Tâm.

 Đây chính là lý do khiến chúng tôi, những người tự ấu thơ đã lớn lên trên đất Trung Hoa, dù rất biết ơn người dân Trung Hoa đói khổ lúc đó đã nhường cơm sẻ áo nuôi chúng tôi, cũng  không thể không lên tiếng nhằm cảnh báo tất cả những ai còn tin vào “16 chữ vàng, 4 tốt v.v.” của nhà cầm quyềnTrung Quốc hiên nay cùng những trang mạng ngây thơ, cực đoan theo họ làm tan nát dân tộc Việt. Bản chất của họ không bao giờ thay đổi, chỉ có thủ đoạn là ngày càng nham hiểm,tinh vi  hơn mà thôi, thậm chí không ngần ngại khóac áo chống cộng kịch liệt…kể cả những thủ đoạn ném đá dấu tay bần thỉu nhất.

3. Kết luận.

Quý vị nhất định cũng biết rằng, trong cộng đồng những người bình thường thì dân gian đã nói “Một sự bất tín, vạn sự bất tin.” Cho nên , chỉ cần chỉ ra sự bịa đặt nhảm nhí trong bài số 22 này của Huỳnh Tâm đăng trên trang Blog của quý vị, thì liệu còn ai có thể tin cậy vào cả loạt hơn 22 bài liên tiếp của quý vị nữa. Có chăng chỉ là những người bất bình thường. Chẳng lẽ tiêu chí của trang Blog “Dân Làm Báo” là nhắm đến những người thần kinh bất bình thường sao?

Nghe nói sau bài số 22 này, các vị còn cho đăng tiếp nay đã đến bài số 24 cùng chủ đề rồi thì phải. Phải chăng là quý trang đang sử dụng phương pháp của J.Goebbels, Bộ trưởng tuyên truyền của Hitler: “Es wäre nicht unmöglich, mit ausreichender Wiederholung und einer psychologischen Verständnis für die Sorge, dass ein Quadrat ist in der Tat ein Kreis Menschen zu beweisen.“( “It would not be impossible to prove with sufficient repetition and a psychological understanding of the people concerned that a square is in fact a circle.” Tạm phỏng dịch: Với sự hiểu biết được tâm lý và cứ nói đi nói lại mãi thì cũng không khó để làm cho con người nhìn một hình vuông mà vẫn  tin đó là hình tròn). Câu phát ngôn này của J. Goebbels là kim chỉ nam cho bộ máy tuyên truyền Đức quốc xã, chắc quý vị cũng không lạ gì.

Chúng tôi không muốn đi quá xa vào tranh biện chính trị, âm mưu, thủ đoạn vv...và vv.. Chỉ muốn nhắc lại một câu nói của cổ nhân (Trung Hoa hay Việt gì cũng vậy) rằng: "Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu = Ngậm máu phun người, trước là làm bẩn miệng mình".

4. Vĩ thanh

Theo chuẩn mực văn minh trong tranh luận, trang Blog của chúng tôi đã đăng nguyên văn bài nói trên của quý trang Blog  tại đây. Chúng tôi tin rằng trang Blog của quý vị cũng có đủ dũng khí và văn minh để đăng nguyên văn thư này của chúng tôi trên trang mạng của quý vị. Chúng tôi hy vọng vài ngày tới, sẽ được đăng lại thư này trên trang của chúng tôi dẫn nguồn từ trang Blog của quý vị.

Ký tên: Kỳ Vinh Hưng  kyvinhhung29@yahoo.com  (Tác giả gửi BVB)



(Blog Bùi Văn Bồng)

Nhà thơ Ngô Minh
Nhà thơ Ngô Minh
 Khát vọng tự do, độc lập là bản thể của con người. Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ khẳng định :”Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đó là đoạn mà cụ Hồ Chí Minh trích trong mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ. Đối với nhà văn, tự do độc lập trong sáng tạo càng quý giá vô ngần. Cái đó ví như sinh mệnh của người cầm bút. Không có tự do, độc lập trong sáng tạo thì không thể có tác phẩm văn chương nghệ thuật đích thực, có ích cho con người, cho nhân loại.

         Bởi thế mà Đại hội Nhà văn Việt Nam nào, các hội viên cùng đau đáu bàn về quyền tự do sáng tạo. Tôi vô Hội Nhà văn năm 1987, được đi dự từ ĐHNV4 đến ĐHNV 8, đại hội nào tôi cũng được nghe các bản tham luận nóng bỏng về “Tự do sáng tạo”. Đại hội NVVN 4, nhà văn Dương Thu Hương và nhiều người khác bàn rất hay về tự do sáng tạo; Đại hội 5, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về “đối trọng” khẩn thiết đến mức trưa hôm sau Tổng bi thư Đảng Đỗ Mười phải mời gặp riêng để “cùng trao đổi”; Đại hội 6, nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhà thơ Trần Mạnh Hảo cùng bàn rất sôi nổi về tự do sáng tạo.v.v..Dần dà, đảng, nhà nước Việt Nam cũng dần dần nhận ra cái quyền đó của các nghệ sĩ, nhà văn, nên có nhiều nghị quyết về văn hóa văn nghệ của đảng đã ghi rõ “ đảm bảo quyền tụ do sáng tạo của nhà văn”.

         Tuy nhiên, từ nghị quyết đến thực tiễn cuộc sống là một khoảng cách lớn, tùy theo nhận thức và tầm nhìn của người quản lý văn hóa nghệt huật. Dù cuộc sống văn chương cũng đã có những chuyển biến theo hướng tốt hơn: không còn cảnh áp đặt “phải sáng tác theo một phương pháp duy nhất là “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” nữa. Nỗi buồn, nỗi đau của thân phận con người trong các tác phẩm văn chương được tôn trọng hơn. Nhưng trên thực tế nhiều cuốn sách, nhiều tác phẩm viết theo chính kiến độc lập của tác giả vẫn không được xuất bản hoặc khi in ra bị phê phán ( nhà văn gọi nôm na là “bị đánh”) như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hoàng Minh Tường, Trần Dần…; bị thu hồi xay bột như Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn.v.v..Chuyện quản lý văn nghệ theo kiểu Mao-ít cực đoan đến mức, một thời tất cả các tác phẩm văn chương đều phải viết cùng một cách, nói cùng một giọng, đa phần là viết cái cần tuyên truyền, chứ không thể viết  cái thực muôn màu của cuộc sống.Vẫn có những người luôn suy diễn, bắt bẻ, phê phán những hình tượng văn học có “biểu tượng hai mặt”. Đó là gian đoạn văn học làm nhiệm vụ “phải đạo”, ‘minh họa” đường lối, chứ rất ít sáng tác thật. Bởi thế GS Hoàng Ngọc Hiến mới có bài tiểu luận sắc sảo “VỀ MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC VÀ NGHỆ THUẬT Ở TA TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA”, gọi đích danh văn học một thời  ở ta là “văn học phải đạo”. Phải đạo – chữ dùng quá đích đáng ( chữ của HNH). Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết LỜI AI ĐIẾU CHO MỘT GIAI ĐOẠN VĂN NGHỆ MINH HỌA. Nguyễn Khải, nhà văn gạo cội của cách mạng, từng là Đại biểu Quốc hội, những năm tháng cuối đời đã phải “Đi tìm cái tôi đã mất”. Nhà văn mất cái gì? Mất cái tự do viết theo cám xúc thực của mình. Nhà thơ Chế Lan Viên, cây bút thơ cách mạng sừng sỏ đã phải viết hàng trăm bài thơ sám hối ( trong tập Di cảo). Nhà thơ gọi đích danh cái mình đang ăn là BÁNH VẼ- Chưa cần cầm lên nếm,  anh đã biết là bánh vẽ/ Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn/  Cầm lên nhấm nháp…!. Tại sao những “cây đa cây đề” số một của văn học cách mạng như Chế Lan Viên,Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến lại phản tỉnh như vậy?. Đó là do cách quán lý văn nghệ cực đoan, cừng nhắc, làm cho nhà văn không được viết những cái gan ruột của mình. Cách quản lý đó phải xem xét lại, phải đổi mới một cách nghiêm túc. Nếu cứ “xưa bày nay làm”, không đổi mới nhận thức và phương pháp sẽ khó mà lãnh đạo được văn nghệ sĩ trong thời hội nhập

         Hồi chống Pháp, năm 1952, nhà thơ Hải Bằng ( lúc đó ký  là Văn Tôn) ở Trung đoàn 95 có bài thơ Em người nữ cứu thương người Pháp rất xúc động về một nữ cứu thương của quân đội Pháp chết trên chiến trường.Đó là sự xúc động từ cõi lòng người nghệ sĩ. Một bài thơ thể hiện quan điểm quốc tế chống chiến tranh rất mạnh mẽ, nhưng lại bị phê phán kịch liệt tại hội nghị Văn nghệ Cùa ( 1948) do Liên khu 4 tổ chức. Những người lãnh đạo phê phán cho rằng đây là bài thơ”ca ngợi kẻ thù. Cấm phổ biến!”. Nhưng bài thơ vẫn được nhân dân và bộ đội thuộc lòng để sau này Tập san Cựu Chiến Binh của tỉnh Quảng Trị in lại do anh em cựu chiến binh thuộc nằm lòng. Cho nên cái gì thuộc nhân bản, nhân văn thì cấm mấy vẫn tồn tại.

         Một vấn đề gây bức xúc trong  anh em nhà văn hiện nay là thái độ ứng xử không tốt đối với những người không chịu được sự trói buộc của vòng kim cô tư tưởng, muốn tách ra hoạt động độc lập, như những người trong Ban vận động Văn đoàn độc lập. Họ nêu mục tiêu xây dựng một nền văn học đích thực, dân chủ, hiện đại  và hội nhập với thế giới. Xem ra cái mục tiêu ấy không phản dân hại nước gì cả, mà chính là đích đang hướng đến của tất cả các nhà văn Việt Nam hiện nay. Thế mà, trong Đaị hội nhà văn khu vực TP HCM, họ bị gạch tên trong danh sách bầu đại biểu dự Đại hội Nhà văn 9 vào tháng 7-2015 ở Hà Nội ( rút kinh nghiêm việc “gạch tên” này, các Đại hội Nhà văn khu vực phía Bắc và Hà Nội được chỉ đạo không bỏ phiếu cho ai thì không gạch tên mà khuyên vòng con số trước nhà văn đó). Trong các Đại hội Nhà văn ở Hà Nội, có một số nhà văn đã lên diễn đàn phê phán Văn đoàn độc lập với thái độ khinh bỉ, mạt sát. Đó là thái độ kích động, chia rẻ, theo hùa. Tôi nghe nói không chỉ gạch tên, các cơ quan quản lý đã chỉ thị ngầm (nhán tín, điện thoại) cho các báo và các phương tiện truyền thông khác trong nước không được đăng bài vở của họ, các Nhà xuất bản không được in sách của họ (!?). Một số người còn bị tước bỏ quyền tham luận, phát biểu trong các cuộc hội thảo về văn hóa, lịch sử nơi này nơi khác. Vì dụ , theo anh Nguyên Ngọc, trong Hội thảo về 100 năm Nguyễn Đổng Chi nhà văn Nguyên Ngọc  bị cấm không được mời, tham luận của ông  gửi đến từ trước bị loại ra khỏi kỷ yếu hội thảo…Thậm chí, tôi được biết, Khoa sử của một trường Đại học ở Huế mời nhà văn Nguyên Ngọc nói chuyện với sinh viên về Văn hóa lịch sử Tây Nguyên, đề tài mà nhà văn rất am tường. Nhà văn đã đến Huế. Nhưng rồi được lệnh của ai đó trên tốp lại, không cho Nguyên Ngọc nói chuyện, phải quay về Hội An. Đó là thái độ thiếu văn hóa và thiếu cả bản lĩnh chính trị, làm cho sinh viên Huế  bị thiệt thòi vì không được khai thác cái “mỏ vàng tây Nguyên” lộ thiên Nguyên Ngọc.

       Như thế là Tổ chức quản lý văn nghệ nhà nước vô hình chung đã đẩy những văn nghệ sĩ có tư tưởng “độc lập, tư do” trong sáng tạo nghệ thuật sang phía đối địch. Nhà văn Tô NhuậnVỹ trong tiểu thuyết Ngoại ô đã kiệt liệt đả phá quan điểm “ ai không theo ta là địch” này đang nảy nở trong nhận thức và hoạt động của không ít cán bộ cách mạng sau năm 1975. Quan điểm “cứng nhắc” và “cách mạng quê mùa” đó làm hại không nhỏ cho cách mạng trong trong việc hòa hợp, hòa giải, tập hợp lực lượng để đưa đất nước tiến lên.

       Viết đến dây, tôi bỗng nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ( NVGP), do lập trường “ai khác mình là kẻ thù”, một nhóm văn nghệ sĩ NVGP bị đẩy về phía đối địch, thành kẻ thù của cách mạng, phải ứng xử bằng các án tù, cải tạo. Thậm chí hai chữ “nhân văn” và “giai phẩm” với nghĩa từ rất tốt đẹp bỗng trở thành những từ chỉ cái xấu, cái phản động ai cùng  phải nẻ tránh! Thực ra, NVGP như nhà văn Lê Hoài Nguyên (tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Ðại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi vãn nghệ sĩ và vãn hóa) phân tích “Với tất cả những gì đã xảy ra nên coi đây là một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành“. Tôi đồng ý với đánh giá này. Thế mà những Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán bị đọa đày mấy chục năm ròng. Phùng Cung bị tù cấm cố suốt 12 năm. Thậm chí ông Nguyễn Hữu Đang, nguyên Trưởng ban Tổ chức Lễ độc lập để cụ Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình 2-9-1945, bị tù một nơi xa vắng đến mức không hề biết có cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc! Rồi hàng trăm giáo sư, thày giáo, sinh viên, nhà văn, nghệ sỹ điện ảnh sân khấu, nhạc sỹ, họa sỹ, kiến trúc sư, phóng viên, xuất bản, cán bộ lãnh đạo, nhân viên một số bộ ngành, cơ quan nhà nước bị trừng phạt nội bộ bằng các hình thức kỷ luật hà khắc.Vụ Nhân văn-Gia phẩm ấy đã loại ra khỏi guồng máy xã hội hàng trăm trí thức, văn nghệ sĩ thuộc loại đầu đàn của đất nước, trong đó có nhiều người được thế giới ngưỡng mộ, làm cho nền văn hóa xã hội của đất nước đã nghèo lại càng nghèo hơn.

         Sau này một loạt tác phẩm của các nhà văn dính NVGP ấy đều đã được in lại, như hai bài thơ làm cho Phùng Quán bị 30 năm treo bút là Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí đều được in lại ( Phùng Quán thơ, NXB Văn học, 2003). Bài thơ Lời mẹ dặn còn được độc giả bình chọn là một trong 100 bài thơ Việt hay nhất thế kỷ XX. Các nhà văn, nhà thơ NVGP như Hoàng Cầm, Lệ Đạt, Trần Dần, Phùng Quán đều được tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2007. Điều đó làm cho những nhà phê bình từng “đánh” NVGP năm nào bây giờ thấy xấu hổ. Cũng như nhà văn Nguyễn Quang Sáng  sinh thời đã xin lỗi nhà văn Bảo Ninh vì đã viết bài”đánh”  Nỗi buồn chiến tranh

        Bây giờ đất nước đã hội nhập với thế giới. Việc các nhà văn tuyên bố ra hội, không theo hội Nhà văn Việt Nam nữa là chuyện bình thường. Thậm chí họ thành lập một hội nhà văn riêng cũng là chuyện bình thường. Nhà nước không cấp phép họ vẫn họat động. Họ vẫn là nhà văn Việt Nam chính danh. Họ vẫn viết và in ấn tác phẩm của mình bằng nhiều cách. Sách hay, sách thật, sách nhân bản thì chỉ in vài chục bản, người đọc cũng tìm để phôtô bằng được, rồi nhân bản thành hàng triệu, hàng chục triệu bản. Không ai cấm được các nhà xuất bản ở Mỹ, Pháp… in sách của các tác giả Việt Nam cả, cốt là hay.

       Vì thế cho nên, dù hoạt động trong Hội Nhà văn Việt Nam hay Hội nhà văn nào khác trên đất nước này, chúng ta phải cùng chia sẻ, đồng cảm với các đồng nghiệp của mình. Đừng nên đẩy các nhà văn có chính kiến khác vào thế đối nghịch. Trên blog QÙA TĂNG XỨ MƯA của tôi, khi đưa tin 20 nhà văn từ bỏ Hội NVVN, có người tên là Duy Nguyễn comment bảo:” Sao Ngô Minh còn lưỡng lự gì nữa mà không từ bỏ hội?”. Tôi nghĩ, dù tham gia Hội nào thì tôi vẫn là tôi, vẫn viết cái thực mình cảm, mình nghĩ, không lấy việc “vào hội ra hội” làm trọng.

        Như tôi/  đứa con của cát / mắt quen mở ngang tầm gió sắc / để nhận trong mắt biển một chân trời/ kêt tinh thành hột muối hồn tôi…

Huế 30/5/2015

Ngô Minh

(Blog Quà Tặng Xứ Mưa)


Luật biểu tình và án tử hình, việc cần thì phải làm ngay, việc không cần thì đừng bận tâm, hãy dành thời gian và tiền của giữ đất, giữ trời, giữ biển đảo.

Báo chí đưa tin, trong kỳ họp Quốc hội thứ 9 khóa 11, có đại biểu  “thiết tha đề nghị Quốc hội cho ý kiến dự án Luật biểu tình vào kỳ họp thứ 10 và thông qua tại kỳ thứ 11 vào quý I năm 2016”.

Lý do của đề nghị, như ý kiến của ông Đặng Ngọc Tùng – Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: “Đặc biệt, trong tình hình Trung Quốc xâm phạm chủ quyền quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta, nên người dân rất muốn có điều kiện để bày tỏ tâm tư, nguyện vọng và tình cảm, phản ứng của họ. Nếu có Luật biểu tình thì rất tốt”. [1]

Hơn ba năm trước, Quốc hội đã thông qua nghị quyết đưa dự Luật Biểu tình vào chương trình chuẩn bị xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13.

Tại buổi trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội sáng 25/11/2011 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Luật biểu tình phù hợp với Hiến pháp, đặc điểm lịch sử văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam, thông lệ quốc tế và cũng để đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân. Đồng thời luật này cũng có yêu cầu là ngăn chặn những việc làm, những hành vi gây xâm hại đến an ninh trật tự, đến lợi ích của xã hội và nhân dân”. [2]

Ba năm sau khi Quốc hội ra nghị quyết về Luật Biểu tình, cuối năm 2014 vẫn có ý kiến trong Chính phủ đề xuất rút Dự Luật ra khỏi chương trình xây dựng luật và pháp lệnh khóa 13 và chương trình năm 2015.

Tuy nhiên, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 30/12/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng: “Hiến pháp quy định người dân có quyền biểu tình, đồng thời cũng quy định việc hạn chế quyền của người dân phải do luật định. Do đó Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo Dự án Luật này cần tập trung hoàn thiện để trình Quốc hội theo đúng chương trình; nghiên cứu kỹ và chỉ nên xin lùi thời điểm trình Dự án Luật”. [3]

Tranh luận tại kỳ họp này về Luật Biểu tình, đại biểu Dương Trung Quốc cho rằng: “không phải tự nhiên mà Thủ tướng chủ động đề nghị đưa vào chương trình luật pháp về biểu tình. Đương nhiên đây là luật rất nhạy cảm, khó khăn, chúng ta phải có lộ trình thích hợp, thận trọng, nhưng không vì thế mà phủ nhận để biến chúng ta thành một ốc đảo dị thường trong thế giới hiện nay". [2]

Như vậy không thể nói rằng thời gian chuẩn bị là quá ngắn, hay thiếu nhân lực và chuyên gia pháp lý soạn thảo dự án luật.

Một khi Thủ tướng đã hai lần nhấn mạnh về sự cần thiết, đã chỉ thị đích danh cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo mà dự án luật vẫn bị chậm trễ thì phải đặt câu hỏi về nguyên nhân và trách nhiệm của những người chịu trách nhiệm.

Chấp nhận quyền biểu tình, luật hóa quyền biểu tình chính là tôn trọng hiến pháp, tôn trọng quyền công dân. Vậy nên chậm trễ thông qua, chậm trễ ban hành luật sẽ khiến không chỉ người dân mà còn dư luận quốc tế đặt câu hỏi lý do chậm trễ là gì?

Trước mưu đồ và thực tế xâm lược mà nước ngoài đang thực hiện trên biển Đông, không thể không tạo điều kiện cho người dân biểu lộ thái độ.

Trước âm mưu và hành động lợi dụng để gây rối, kích động tâm lý đám đông, đập phá các cơ sở sản xuất, kinh tế như đã từng xảy ra, ảnh hưởng đến hợp tác quốc tế của nhà nước, không thể không nghiêm trị kẻ chủ mưu.

Một dự án luật liên quan đến quyền hiến định của công dân, Quốc hội đã có kế hoạch, Thủ tướng đã hai lần nhắc nhở vậy mà hơn ba năm, sắp bốn năm chưa hoàn thành dự thảo, chưa thể trình Quốc hội, có lẽ đây là trường hợp hiếm hoi trên thế giới.

Nói hiếm hoi vì không chỉ Quốc hội mà cả người đứng đầu chính phủ đều thống nhất quan điểm, chỉ có cấp dưới là chưa muốn, vậy là cả Quốc hội, cả Thủ tướng đều phải chờ, còn người dân thì có lẽ là nên tranh thủ làm thơ, xin mạn phép gieo vần như sau:

Quốc hội, Thủ tướng còn chờ (dự án luật)

Bà con nếu vội xem nhờ phim Nga! (phim Hãy đợi đấy)

Còn về ý kiến bỏ án tử hình với tội tham nhũng và tội vận chuyển chất ma túy đang được một số người đề xuất thì nên hiểu thế nào?

Xét về phạm vi ảnh hưởng thì tội phạm ma túy ảnh hưởng đến một số gia đình, một số đối tượng trong đó phổ biến là thanh niên, tuy nhiên nếu dựa vào số liệu đã công bố, rằng mỗi năm ngành công an xử lý khoảng 16.000 vụ án ma túy thì số đối tượng phạm tội và số người bị ảnh hưởng cũng ở mức trên con số ấy.

Trong khi đó thì tội tham nhũng ảnh hưởng đến toàn xã hội, làm băng hoại đạo đức, phá hoại nền kinh tế, làm suy giảm lòng tin của dân vào lãnh đạo, vào chế độ, điều này đã được Đảng khẳng định trong nhiều văn bản, nghị quyết.

Tham nhũng được xem là giặc nội xâm, đã là giặc thì phải tiêu diệt, không bao giờ có chuyện thỏa hiệp với giặc.

Nông thôn ngày xưa, có một mẫu ruộng, một con trâu bị quy là địa chủ, ở ngoại thành Hà Nội cho đến tận hôm nay người dân vẫn dùng từ “nhà chiến thắng, đất chiến thắng” để nói về những ngôi nhà, thửa đất tịch thu của địa chủ chia cho người nghèo. Người già kể lại không ít địa chủ vẫn ra đồng cào cỏ, tát nước.

Hãy nhìn những cán bộ từ cấp phường xã trở lên mà xem, tài sản của họ gấp bao nhiêu lần người nông dân? Nói như ông Nguyễn Xuân Tỷ, Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng: “Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa”.

“Kinh khủng hơn cả địa chủ, tư sản ngày xưa” nghĩa là thế nào?

Là ở chỗ người giàu ngày nay vừa có tiền, vừa có quyền, lại còn có chỗ dựa chắc chắn, chẳng thế mà khi rục rịch bị pháp luật sờ gáy họ lập tức chuẩn bị đối phó.

Cách đối phó của họ đâu có tầm thường kiểu Chí Phèo rạch mặt ăn vạ, họ đòi sửa cả luật để miễn án tử hình. Tham nhũng 100 tỷ, trả lại 50 tỷ là “ngon rồi”, ung dung ngồi tù mười năm rồi ân xá, rồi về tiêu nốt 50 tỷ còn lại, có mà buôn vua như Lã Bất Vi cũng chẳng hơn, vậy thì tội gì mà không tham nhũng?

Nhiều báo nêu tên các vị đại biểu phản đối bãi bỏ án tử hình tội tham nhũng như ông Nguyễn Xuân Tỷ, ông Vương Đình Huệ, Tướng Nguyễn Đức Chung… nhưng né tránh không nêu tên người đề xuất bỏ án tử hình.

Thiết nghĩ họ cũng có “cái lý” khi nêu đề xuất này, có thể cái lý của họ là lòng “nhân đạo”, rằng “mạng sống con người là quý nhất” vân vân… nên những người giàu như quan tham nhũng không nên tử hình họ, nên để họ sống để chuộc lỗi?

Giá mà người dân biết được những ai đề xuất bỏ án tử với tội tham nhũng? Giá mà người dân biết được tài sản của họ, giá mà truyền thông mạnh dạn thêm tí nữa, minh bạch họ tên tài sản của họ cho dân biết.

Nếu mà họ nghèo như những người dân Nghệ- Tĩnh đang mặc áo tơi giữa trời nắng trên 40 độ ngoài đồng thì chắc chắn người dân sẽ thông cảm với đề xuất của họ, và người viết, dẫu không đồng tình với đề xuất của họ, vẫn dành cho họ lòng ngưỡng mộ.

Liệu có phải đang có một sự chuyển hướng, các phần tử thuộc “bộ phận không nhỏ” đang cảm nhận cái nóng của ngọn lửa mà lòng dân hun đúc nên họ đang liên kết lại, đang thay đổi chiến thuật từ “hy sinh đời bố, củng cố đời con” sang “giữ nguyên đời bố, gia cố đời con”?

Mở đầu Bình Ngô đại cáo, cụ Nguyễn Trãi viết:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Trừ bạo để yên dân được xem là “việc nhân nghĩa”, vậy thì không trừ bạo để lòng dân bất yên chính là phản nhân nghĩa, chính là việc làm của kẻ bất nhân, người xưa nghĩ thế, vì sao ngày nay không ít người không nghĩ thế?

Phản đối ý kiến bỏ án tử hình với tội tham nhũng và vận chuyển ma túy là chưa đủ, còn phải lên án những ai đó đang có ý định giảm nhẹ hình phạt với những kẻ đang “đè đầu, cưỡi cổ nhân dân” như ý kiến của tướng Nguyễn Xuân Tỷ.

Cái họa mất nước không chỉ nằm ở những hành động phản quốc mà còn nằm trong chính những tư tưởng manh nha đi ngược lại lợi ích của nhân dân nhưng lại được không ít  “công bộc” của dân quảng bá.

Luật biểu tình và án tử hình, việc cần thì phải làm ngay, việc không cần thì đừng bận tâm, hãy dành thời gian và tiền của giữ đất, giữ trời, giữ biển đảo./.

Tài liệu tham khảo:

XUÂN DƯƠNG

(Giáo Dục)

Sâu Ciu Blog