vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:

Chuyến công du châu Á của Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter đã giúp Mỹ "lôi kéo" thêm một quốc gia tham gia chiến dịch chế ngự Trung Quốc trên Biển Đông, theo Washington Times.

 Xây dựng "liên minh"

Washington Times đánh giá, kết quả đạt được trong chuyến công du tới Ấn Độ tuần vừa qua của ông Carter là bước tiến triển mới nhất trong chiến dịch xây dựng một "liên minh" chống lại sự bành trướng phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.

Tại New Delhi, ông chủ Lầu Năm Góc và người đồng cấp bên phía Ấn Độ Manohar Parrikar đã đặt bút kí vào bản hiệp ước quốc phòng kéo dài 10 năm, trong đó nhấn mạnh việc tăng cường hợp tác quân sự đôi bên.

Trong một tuyên bố chính thức, Bộ Quốc phòng Mỹ không ngần ngại khẳng định chuyến công du của ông Carter tới Ấn Độ là một phần của chiến dịch "tái cân bằng ảnh hưởng tại châu Á - Thái Bình Dương" của Mỹ nhắm đến Trung Quốc.

Ông Carter và ông Parrikar
                                                      Ông Parrikar và ông Carter. Ảnh: AP

Bản thân ông Carter cũng nói rằng, việc Mỹ tăng cường hiện diện trong khu vực, đi kèm với sự phát triển của Ấn Độ, Singapore, hay Việt Nam, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chế ngự sự hung hăng của Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông.

"Hai yếu tố này sẽ tương trợ lẫn nhau trong việc đảm bảo an ninh hàng hải" - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phát biểu.

Tóm lược lại tình hình, trong những tháng gần đây Trung Quốc đã và đang đẩy mạnh xây dựng trái phép trên các đảo đá nhân tạo nhằm phục vụ mưu đồ bành trướng của mình. Một số đảo thậm chí đã đủ rộng để xây dựng đường băng.

Ngoài ra, Bắc Kinh cũng thể hiện sự ngang ngược của mình với việc liên tiếp tìm cách ngăn cản không cho tàu bè quốc tế đi lại trên biển, gần những đảo đá Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép.
Trước tình hình đó, theo chuyên gia Robert Manning thuộc Hội đồng Nghiên cứu Đại Tây Dương, Mỹ đang đẩy mạnh việc xây dựng một "liên minh" với mục tiêu đảm bảo an ninh khu vực.

Kết quả hình ảnh cho Biển Đông: "Liên minh" chế ngự TQ của Mỹ chào đón thêm thành viênNHÀ NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TRUNG QUỐC
 TẠ DIỄM MAI
Giới địa chính trị Bắc Kinh dường như vẫn bị "ám ảnh" bởi suy nghĩ rằng Mỹ sinh ra là để kìm hãm Trung Quốc, rằng mỗi chính sách Mỹ đặt ra cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều mang trong nó một điều gì đó bất lợi đối với Trung Quốc.

"Những gì Mỹ đang làm, qua các hiệp ước quốc phòng kí kết với Nhật Bản, hay tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng với Việt Nam, đó là xây dựng một khối 'liên minh' gồm các đồng minh và đối tác an ninh trong khu vực.

Và hiệp ước kí kết với Ấn Độ gần đây là bước đi mới nhất trong chiến dịch chế ngự [Trung Quốc trên Biển Đông]" - ông Manning nhận định.

Ấn Độ gia nhập?

Đáng chú ý, từ trước đến nay chính sách đối ngoại của Ấn Độ vẫn là trung lập đối với tuyệt đại đa số các vấn đề trên thế giới, và điều này nhiều khả năng sẽ không thay đổi, theo phân tích của Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á thuộc The Heritage Foundation.

Ông Lohman cho rằng, dù hiệp ước kí với Mỹ là một bước tiến quan trọng trong quan hệ song phương, tuy nhiên lập trường trung lập của Ấn Độ sẽ không thay đổi.

"Bằng chứng là dù Ấn Độ có mua trang thiết bị quốc phòng từ Mỹ, họ cũng làm điều tương tự với Nga, để tránh bị lệ thuộc quá nhiều vào một đối tác nhất định" - chuyên gia này cho biết.

Do đó, ông Lohman khẳng định New Delhi sẽ không "hồ hởi" sát cánh Mỹ trong chiến dịch chế ngự Trung Quốc. Họ lo ngại nếu làm như vậy sẽ ảnh hưởng tới chính sách trung lập của mình.

Nhưng theo Washington Times, Mỹ và Ấn Độ có lợi ích chung trên Biển Đông, và Washington hoàn toàn có thể đã sử dụng luận điểm này để thuyết phục New Delhi tham gia vào "liên minh".

Việc Trung Quốc ngang ngược tuyên bố chủ quyền trái phép trên 90% diện tích Biển Đông, nơi giàu tài nguyên khí đốt và là trung tâm trao đổi hàng hóa với nhiều tàu thuyền qua lại, cũng ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích quốc gia của Ấn Độ.

Ngoài ra, quan hệ Trung - Ấn từ trước đến nay vẫn chưa bao giờ được đánh giá là ổn định. Việc Trung Quốc quá thân thiết với Pakistan, quốc gia tranh chấp vùng Kashmir với Ấn Độ, đã không ít lần khiến New Delhi "nóng mặt".

Kiềm chế tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng là điều mà Ấn Độ dù không thể hiện rõ ràng nhưng đã và đang thực hiện. Đó là những lý do tại sao Washington Times cho rằng nhiều khả năng ông Carter đã thuyết phục được New Delhi gia nhập "liên minh" của mình.

Vai trò của Ấn Độ trong "liên minh"

Trong cuộc họp báo hôm thứ năm (4/6) vừa qua, Lầu Năm Góc từ chối bình luận về mục tiêu của ông Carter trong chuyến công du châu Á mới đây.

Tuy nhiên, tại Đối thoại Shangri-La, chính người đứng đầu Bộ Quốc phòng Mỹ đã nói rằng ông trông chờ Ấn Độ sẽ củng cố vai trò của mình trong công cuộc bình ổn an ninh khu vực.

"Nước Mỹ tin rằng Ấn Độ sẽ không những phát triển về kinh tế và quân sự mà còn là một chốt chặn đảm bảo an ninh khu vực hiện tại cũng như trong tương lai" - ông Carter phát biểu.

Phó Chủ tịch Viện Nghiên cứu vì Hòa bình Thế giới Carnegie, ông Douglas Paal, nhận định, hợp tác trong việc chế ngự Trung Quốc trên Biển Đông là mục tiêu lâu dài trong việc đẩy mạnh quan hệ với Ấn Độ của Mỹ.

"Đó đơn giản là kêu gọi bạn bè và đồng minh tham gia bảo vệ trật tự thế giới. Những gì đã được thiết lập tại Tây Thái Bình Dương suốt hơn 70 năm qua cần được gìn giữ, và người Ấn Độ có thể là một phần của mục tiêu đó" - ông cho biết.

Còn với Ấn Độ, theo ông, Biển Đông cũng chỉ là một phần. Những gì New Delhi làm còn phục vụ cuộc chiến nơi biên giới nước họ, hay những cạnh tranh với kình địch lâu năm Trung Quốc, hay nhiều lý do khác nữa.

Nhưng dù vì lý do gì, thì xem ra "liên minh" chế ngự Trung Quốc trên Biển Đông do Mỹ khởi xướng đã có thêm một thành viên hùng mạnh nữa gia nhập hàng ngũ của mình.

Đức Huy

(Đại Lộ)

Tướng Lê Mã Lương cho rằng, không ai khác mà chính Mỹ sẽ cùng Việt Nam có những hành động cứng rắn để ngăn chặn hành động thái quá, phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trước những quan tâm của dư luận hậu chuyến thăm tàu Cảnh sát biển Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter khi ông thực hiện chuyến công du đến Việt nam trong bối cảnh khẩu chiến giữa Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia láng giềng liên quan đến tình hình Biển Đông ngày càng gia tăng, PV báo Người Đưa Tin đã có cuộc trao đổi với Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thiếu tướng Lê Mã Lương - nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam về chủ đề quen thuộc này nhằm cung cấp cho độc giả các ý kiến, phân tích, đánh giá và nhìn nhận đa chiều từ những nhân vật khác nhau.

Mở đầu cuộc trò chuyện, người lính được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân từ năm 21 tuổi chia sẻ: “Lực lượng cảnh sát biển của Việt Nam mới thành lập 20 năm nay nhưng đang phải đương đầu với thử thách, nhiệm vụ trọng đại của đất nước: Giữ từng thước biển, giữ yên bờ cõi của quốc gia.

'Chính Mỹ sẽ cùng VN ngăn chặn dã tâm chiếm Biển Đông của TQ' - Ảnh 1
              Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thiếu tướng Lê Mã Lương. (Ảnh: Cao Tuân)

Mặc dù còn non trẻ nhưng cảnh sát biển Việt Nam đã thể hiện lòng trung thành, ý chí quyết tâm sắt đá và sự tỉnh táo. Thử thách ấy cũng đã trở thành bản lĩnh trong thực tiễn đấu tranh của nhân dân, quân đội ta để giữ vững chủ quyền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

“Tôi nghĩ rằng chính tinh thần đó đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia và tác động đến nhiều nước có quan tâm đến sự kiện Biển Đông, đặc biệt là Mỹ”, ông nói.

Và như vậy, động thái rõ nhất là mới đây, vị Bộ trưởng Quốc phòng một trong những nước có tiềm lực về kinh tế, quốc phòng số một của thế giới đã đến thăm lực lượng hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam.

“Phải chăng sau hội nghị thượng đỉnh an ninh Châu Á tại Singapore/Đối thoại Shangri-la 2015, họ đến thăm để hiểu rõ thực lực của Quân đội nhân dân Việt Nam và mục sở thị một trong những con tàu của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam từng bị tàu kiểm ngư, lực lượng Hải quân của Trung Quốc cố tình đâm, va, phụt vòi rồng gây hư hỏng. Vì thế, vị bộ trưởng Quốc phòng Mỹ muốn có những đánh giá thực tiễn”, tướng Lê Mã Lương nhận định.

Theo Tướng Lương, chuyến thăm của người đứng đầu bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nói lên rất nhiều điều. Nhìn xa hơn, cái đó nằm trong tầm nhìn chiến lược mà hai bộ trưởng Quốc phòng thay mặt cho hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký hợp tác.

“Như tôi được biết, chúng ta đã đặt mua 6 con tàu của Mỹ để phục vụ cho Cảnh sát biển Việt Nam. Nếu tăng cường được 6 con tàu này cho bộ Tư lệnh các vùng cùng với các tàu do Việt Nam đóng sẽ tăng lên đáng kể về sức mạnh. Những con tàu của Mỹ rõ ràng về mặt hiện đại thì chúng ta có thể rất an tâm”, vị anh hùng LLVT chia sẻ.

Tướng Lương phân tích thêm: Có thể thấy, gần đây, Mỹ đã có những hành động tích cực, quyết liệt hơn trong chiến lược hướng về châu Á - Thái Bình Dương nói chung và tình hình Biển Đông nói riêng. Thậm chí Hải quân Mỹ thực hiện tuần tra tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý của các thực thể mà Trung Quốc đang cải tạo bất hợp pháp, bác bỏ quyền kiểm soát của Trung Quốc xung quanh các thực thể nói trên...

Bởi lẽ, Mỹ đã thấy rất rõ âm mưu, lộ trình, bước đi của Trung Quốc đang đe dọa tự do hàng hải và thách thức lợi ích của họ tại Biển Đông và hơn thế là ở các vùng khác.

'Chính Mỹ sẽ cùng VN ngăn chặn dã tâm chiếm Biển Đông của TQ' - Ảnh 2
  Công trình đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép ở Biển Đông nhìn từ máy bay tuần thám Mỹ (Nguồn: CNN)

Mỹ đang thực hiện nhiều biện pháp như vận động Nhật Bản tuần tra chung trên Biển Đông, tăng cường viện trợ quân sự cho Philippines, thúc đẩy quan hệ quốc phòng, an ninh với Việt Nam.

“Một bước đi mà tôi cũng thấy được sự khôn ngoan của người Mỹ, đó là thúc đẩy mạnh hơn lộ trình bình thường hóa quan hệ với Cuba. Điều này đã mở ra một cái nhìn mới toàn diện, sâu sắc hơn cho châu Mỹ - La - tinh nói riêng và cả thế giới nói chung.

Và như chúng ta đã thấy, từ việc này mà gần đây Cuba đã đơn phương rút cam kết cho các tàu chiến của Trung Quốc được neo đậu ở các cảng ở nước này. Việc làm của Cuba là một đòn đánh trực diện, cú sốc đối với ban lãnh đạo Trung Quốc", Nguyên giám đốc bảo tàng lịch sử Quân đội Việt Nam cho hay.

Cũng theo lời vị cựu tướng, việc Mỹ có những hành động cứng rắn trước tình hình Biển Đông không phải để gây hấn hay tranh giành lãnh hải với Trung Quốc. Với Mỹ đang muốn đóng góp vào cái ổn định hòa bình ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như trên thế giới. Mỹ muốn công bằng, ngăn chặn việc nước lớn ép nước nhỏ. Thực hiện công lý nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp quốc tế mà vừa qua Trung Quốc đã đi thái quá.

Mỹ quan niệm cũng như VN và các nước trên thế giới: Biển đông là vấn đề giao thương, cần ổn định hòa bình, bảo đảm an ninh đồng thời đảm bảo an ninh về hàng hải. Mỹ sẽ không để cho Trung Quốc thực hiện đường lưỡi bò 9 khúc phi lý, không có cơ sở cũng như việc Trung Quốc cho lực lượng khống chế Biển Đông. Trung Quốc có tham vọng lớn nhưng không thể bá chủ thế giới.

Việt Nam thực thi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ theo đúng lịch sử, luật pháp quốc tế”

Nói về cách ứng xử của chúng ta trước bối cảnh tình hình quốc tế cũng như khu vực như hiện nay, Thiếu tướng Lê Mã Lương chia sẻ: Việt Nam chúng ta vẫn đang thực hiện theo mục tiêu đã đề ra xuyên suốt là hợp tác đa phương hóa, đa dạng hóa với tất cả các quốc gia trên thế giới.

Việc chúng ta đưa mối quan hệ hợp tác với Mỹ lên một tầm cao mới, là một bước đi khôn ngoan của Việt Nam. Đẩy quan hệ lên cấp độ toàn diện với Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc cũng là bước đi đúng chủ trương.

“Ngay kể cả với các nước trong ASEAN có thái độ không đồng tình trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở Biển Đông với chúng ta thì Việt Nam vẫn giữ thái độ ôn hòa, điềm tĩnh. Điều đó cho thế giới thấy, chúng ta luôn góp phần xây dựng ổn định, hòa bình trong khu vực và thực thi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước theo đúng lịch sử, luật pháp quốc tế”, Tướng Lương nhấn mạnh.

Cao Tuân

(Người Đưa Tin)

Biển Đông đã trở thành nơi kiểm chứng quan trọng nhất cho mối quan hệ kinh tế, chính trị và quân sự đang thay đổi giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Các đảo, đá, rạn san hô và bãi cạn nằm trong trung tâm của tranh chấp – phần lớn chúng không có dân cư và ngập khi thủy triều lên – bao phủ chỉ một vài kilomet vuông của vùng biển hơn ba triệu kilomet vuông. Nhưng những tranh chấp dai dẳng về chủ quyền trong các nước ven biển (chủ yếu là Trung Quốc, Việt Nam và Philippines nhưng có liên quan đến Malaysia, Brunei và Indonesia) đã chuyển thành cuộc đối đầu nguy hiểm khó lường giữa các siêu cường (Trung Quốc và Hoa Kỳ).

Về lý thuyết, các tranh chấp đơn giản bao gồm ba yếu tố: (1) những người sở hữu các mỏm; (2) những quyền lợi, nếu có, có bao gồm quyền sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các vùng biển xung quanh và dưới đáy biển; và (3) quyền sở hữu có ý nghĩa gì đối với tàu và máy bay của các quốc gia khác có hành trình đi qua khu vực này , nơi mà có một số tuyến đường biển nhộn nhịp nhất và quan trọng nhất của thế giới.

Trung Quốc và các quốc gia ven biển khác tranh chấp quyền sở hữu (phần 1) cũng như các quyền lợi đi kèm: các nguồn tài nguyên và quyền kiểm soát hàng hải tại khu vực (yếu tố 2 và 3). Mỹ đã chính thức không có quan điểm về quyền sở hữu và kiểm soát các nguồn tài nguyên (yếu tố 1 và 2) nhưng có một cam kết mạnh mẽ về “tự do hàng hải” và chống lại những nỗ lực khẳng định quyền kiểm soát vùng biển xung quanh (yếu tố 3).

Washington muốn dừng việc phát triển của các mỏm đá và các hoạt động khác mà Mỹ coi là “khiêu khích” việc tạm hoãn để chờ một giải pháp của bất cứ quốc gia nào, nếu có, sở hữu chúng và khẳng định tàu và máy bay của mình có quyền hoạt động bất cứ nơi nào trong khu vực. Trung Quốc nói rằng mình sở hữu các mỏm đá nên có quyền thực hiện đầy đủ chủ quyền trên chúng – bao gồm xây dựng các cấu trúc và cải tạo đất, cũng như tuyên bố lãnh hải xung quanh chúng và tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế.

Biển Đông thường được làm như một tranh chấp pháp lý đơn thuần. Nhưng nó thực sự là một cuộc thi về quyền lực và ảnh hưởng giữa một siêu cường đương nhiệm và một siêu cường đang trỗi dậy. Biển Đông đã trở thành một trận chiến nảy lửa của ý chí giữa một sức mạnh cố hữu (Mỹ) và một sức mạnh động mà muốn viết lại hiệp ước được tạo ra vào cuối Thế chiến II khi nó phần lớn bất lực (Trung Quốc).

Ở đây, biển Đông thúc đẩy một mô hình đa phương mang tính pháp lý để giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế (ưa chuộng bởi Mỹ) chống lại một cách tiếp cận song phương dựa trên ngoại giao và sức mạnh quân sự (ưa chuộng bởi Trung Quốc).

Vấn đề này đặt ra những câu hỏi về việc liệu các quốc gia có thể bị ràng buộc bởi các quyết định của tòa án quốc tế chống lại ý muốn của họ (Philippines đã đưa tranh chấp của mình ra trọng tài quốc tế nhưng Trung Quốc đã khẳng định không chấp nhận thẩm quyền của trọng tài viên).

Về mặt quân sự, nơi đây thử nghiệm xem sức mạnh hải quân của Trung Quốc sẽ bị giới hạn bởi các chuỗi đảo đầu tiên (Nhật Bản, Đài Loan và Philippines) hay ra tới trung tâm của Thái Bình Dương.
Nói rộng ra, ở đây làm nổi lên vấn đề về việc liệu Trung Quốc sẽ vẫn duy trì chủ yếu sức mạnh trên đất liền hay trở thành một sức mạnh hải quân để cạnh tranh với Mỹ với các hoạt động tại tất cả các đại dương trên thế giới.

Tổng quát hơn, cuộc đối đầu này đặt ra câu hỏi về việc liệu Mỹ đang cố gắng tham gia cùng Trung Quốc hoặc xây dựng một mạng lưới các liên minh ở châu Á và Thái Bình Dương để ngăn chặn thế lực kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước này. Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia đang nằm trong nhiều mức độ đồng minh khác nhau của Mỹ. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng làm ấm các liên kết chặt chẽ hơn với Việt Nam, thúc đẩy sự nghi ngờ của Trung Quốc về việc tạo vòng vây.

Và các tranh chấp ở Biển Đông đã trở thành vướng mắc trong chính trị trong nước của cả hai bên. Đối với Trung Quốc, đó là về điều chỉnh khuôn khổ quốc tế sau chiến tranh để phù hợp với sự “trỗi dậy hòa bình” của nước này và công nhận các quyền của Bắc Kinh như một “thế lực lớn” sau nhiều thế kỷ bị sỉ nhục dưới tay của thực dân phương Tây và Nhật Bản.

Đối với Hoa Kỳ, các tranh chấp được gắn chặt với các cuộc thảo luận đầy rẫy về suy giảm kinh tế, chính trị, ngoại giao và quân sự của nước này. Mặc dù chính quyền Obama nên có một cách tiếp cận mạnh mẽ hơn để phô diễn sức mạnh của Mỹ và tổng thống kế tiếp nên cứng rắn hơn với Trung Quốc, Nga và Iran.

Cả chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lẫn Tổng thống Mỹ Barack Obama không thể biểu hiện bất kỳ điểm yếu nào về vấn đề này. Giờ đây, đó là vấn đề về niềm tự hào quốc gia của cả hai bên. Cho đến nay, hai bên đã chọn cho một chiến lược leo thang có kiểm soát.

Trung Quốc đã tăng tốc cải tạo đất và đang gửi hàng ngàn khách du lịch mỗi năm vào các tour tàu du lịch tới đảo nước này tuyên bố chủ quyền. Mỹ đã phản ứng bằng phái một máy bay do thám gần một số mỏm tranh chấp để thực hiện tuyên bố của mình về tự do hàng hải (hoàn thành với đoàn quay phim được mời để đưa ra quan điểm rõ ràng).

Trung Quốc đã gợi ý rằng có thể tuyên bố một khu vực xác định phòng không trong khu vực, tại đó có lẽ tàu và máy bay của nước này sẽ tích cực hơn trong đáp trả các chuyến bay qua khu vực bằng máy bay quân sự và dân sự.

Có một yếu tố quan trọng trong sân khấu của cuộc xung đột này, mà đang diễn ra ở phía trước của phương tiện truyền thông và các hội nghị: cả hai bên đều muốn xuất hiện mạnh mẽ trước khán giả trong nước và các đồng minh nước ngoài của họ trong khi giảm thiểu các nguy cơ đối đầu tình cờ.

Để tránh tai nạn, đôi bên đã đạt được một sự hiểu biết giữa hai quân đội về làm thế nào để xử lý các cuộc gặp gỡ ngoài ý muốn trên biển giữa lực lượng hải quân của họ và tìm cách làm tương tự cho ngành hàng không sau khi một loạt các vụ đánh chặn “dựng tóc gáy” với máy bay quân sự Mỹ bởi các máy bay chiến đấu Trung Quốc hoạt động từ đảo Hải Nam.

Cả hai chính phủ đã cảnh báo bên còn lại trước việc xuất bản tài liệu chiến lược quân sự có vẻ như để kéo sự quan tâm của truyền thông và làm nổi thêm các cuộc tranh cãi.

Đồng thời, cả hai không muốn gây nguy hiểm cho các mối quan hệ rộng lớn hơn. Trên một loạt các vấn đề từ biến đổi khí hậu, bảo vệ sở hữu trí tuệ, thương mại và tội phạm mạng tới Trung Đông và sự phát triển của các công nghệ quân sự nhạy cảm, hai bên vẫn cần nhau.

Chủ tịch của Trung Quốc đã được mời thực hiện một chuyến thăm chính thức Washington vào cuối năm nay, có nghĩa là cả hai bên đều có một động lực mạnh mẽ để nhấn mạnh sự hợp tác hơn đối đầu trong mối quan hệ tổng thể.

Vấn đề là cả hai bên vẫn cam kết một chiến lược leo thang có kiểm soát, có thể dễ dàng trở thành một chiến lược không kiểm soát được nếu không được quản lý một cách cẩn thận. Số lượng tuyệt đối của các đối tác trong tranh chấp Biển Đông làm tăng nguy cơ tính toán sai lầm.

Mỹ dường như chỉ có quyền kiểm soát hạn chế trong hoạt động của Việt Nam và Philippines. Manila là một đồng minh của Mỹ, nhưng Hà Nội trên danh nghĩa là một chính quyền cộng sản, mặc dù Việt Nam rất muốn quan hệ ngày càng chặt chẽ với Mỹ ở cấp độ quân sự giữa hai bên.

Các chỉ huy máy bay và các tàu riêng lẻ trong khu vực phải đưa ra quyết định ngay lập tức trong trường hợp các chạm trán ngoài ý muốn hoặc hành vi bất ngờ. Về lý thuyết, các chỉ huy tại chỗ có thể được kiểm soát thông qua giao thức nghiêm ngặt, nhưng trong thực tế những người này có thể không luôn luôn làm việc và thông tin liên lạc giữa các bên quân đội lại nghèo nàn.

Trong năm 2014, các vụ đánh chặn sát của Trung Quốc với máy bay quân sự Mỹ, thu hút sự phản đối quyết liệt từ các quan chức Mỹ, được đổ lỗi cho các sĩ quan quân sự riêng trên đảo Hải Nam. Cho dù đây là sự thật hay chỉ là vấn đề của chính sách trung ương vẫn chưa rõ ràng nhưng nó chỉ ra mối quan ngại về mức độ chỉ huy tập trung và kiểm soát các lực lượng quân sự địa phương.

Có một nhu cầu cấp thiết trong việc phá vỡ chu kỳ leo thang và tìm một cách tốt hơn để quản lý các tranh chấp. Luật pháp quốc tế, những lời kêu gọi việc ngưng các vụ tranh chấp và những “quy ước” khác của quan hệ quốc tế cũng hữu ích không nhỏ vì các tranh chấp cơ bản là về sức mạnh quân sự.

Thay vì thêm một cuộc đối đầu, hy vọng phía bên kia sẽ lùi bước, cả hai bên cần phải tìm một số cách ngoại giao sáng tạo để biến đổi các tính chất của tranh chấp và thay đổi câu chuyện trước khi nó trở nên tệ hại hơn.

Việt Khôi chuyển ngữ, CTV Phía Trước

John Kemp, theo Japantimes

© 2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info

Alexander Khramchikhin cho rằng cuộc tập trận ở Biển Đông năm tới rất có khả năng Ân Độ và Việt Nam sẽ tham gia.

                                           Tổng thống Nga Vladimir Putin, ảnh: Zeenews.

Đài VOA Hoa Kỳ bản tiếng Trung Quốc ngày 7/6 dẫn lời học giả Nga bình luận, Moscow tập trận chung với Bắc Kinh ở Biển Đông năm tới là nằm trong kế hoạch luân lưu tập trận chung của hải quân hai nước tại địa bàn hoạt động của các hạm đội, không mang bất cứ thông điệp nào về việc ủng hộ hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông.

Cuối tháng 5, Thứ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Antonov tuyên bố bên lề Đối thoại Shangri-la rằng, Nga sẽ tập trận hải quân ở Biển Đông năm 2016 với Trung Quốc. Ông còn chỉ trích Mỹ theo đuổi chính sách kiềm chế Bắc Kinh và Moscow khiến 2 nước này đặc biệt quan ngại.

Mặc dù quan hệ Trung - Nga ngày càng xích lại gần nhau, nhưng trong vấn đề Biển Đông, Nga quyết không muốn phải lựa chọn đứng về bên nào. Thứ trưởng Ngoại giao Nga Igor Morgulov khẳng định rằng, bất luận là ở Biển Đông hay Hoa Đông, Moscow sẽ không đứng về bên này chống lại bên kia.

Alexander Khramchikhin, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Chính trị - quân sự Liên bang Nga cho rằng, Moscow sẽ hết sức tránh để bị lôi kéo vào tranh chấp ở Biển Đông. Trong vấn đề này Nga sẽ không đứng về phía bất cứ quốc gia nào, không bao giờ nói nước này đúng nước kia sai, hết sức cố gắng tránh mở miệng.

Do đó cuộc tập trận chung giữa hải quân Nga và Trung Quốc tháng 5/2016 ở Biển Đông không nên được hiểu là Nga ủng hộ Trung Quốc. Việc địa điểm tập trận được chọn ở Biển Đông chỉ là bởi nguyên do kỹ thuật.

Ông Alexander Khramchikhin cho rằng: "Hải quân hai nước đã thỏa thuận sẽ lần lượt tập trận chung tại địa bàn mỗi hạm đội mỗi nước phụ trách. Điều đó có nghĩa là Nga sẽ tập trận chung lần lượt với 3 hạm đội hải quân Trung Quốc tại địa bàn họ phụ trách. Hai lần trước chúng tôi đã tập trận chung với hạm đội Bắc Hải và Đông Hải, lần này đến hạm đội Nam Hải. Bởi vậy cuộc tập trận chung này không mang ý nghĩa chính trị đặc biệt nào".

                                                   Học giả Alexander Khramchikhin.

Hải quân Nga và Trung Quốc vừa tiến hành tập trận chung tại Địa Trung Hải thuộc địa bàn hoạt động của hạm đội Biển Đen Nga. Thứ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Antonov không nói rõ, cuộc tập trận năm tới ở Biển Đông ngoài Trung Quốc còn quốc gia nào khác tham gia hay không, bao gồm 2 đối tác quan trọng của Nga là Việt Nam và Ấn Độ.

Tờ "Độc Lập" của Nga phân tích, tháng 9 này lãnh đạo Trung Quốc ông Tập Cận Bình sẽ thăm Mỹ, Trung - Mỹ dễ đạt được thỏa hiệp. Do đó Nga không nên liên hệ với bất kỳ bên nào, Trung Quốc hay Mỹ trong vấn đề Biển Đông. Mặt khác quan hệ Nga - Việt lại vô cùng quan trọng bởi nó không chỉ đã được thời gian kiểm nghiệm, mà còn bởi vì Nga muốn qua Việt Nam để vào thị trường Đông Nam Á.

Alexander Khramchikhin cho rằng cuộc tập trận ở Biển Đông năm tới rất có khả năng Ân Độ và Việt Nam sẽ tham gia, nhưng vẫn còn phải xem tình hình quốc tế diễn biến cụ thể ra sao. "Vì hiện nay Trung Quốc và Việt Nam đều đang là 2 bên yêu sách xung đột nhau ở Biển Đông, do đó Nga không muốn đắc tội với Trung Quốc, cũng không muốn đắc tội với Việt Nam".

"Vì thế về mặt nguyên tắc Nga sẽ muốn tập trận chung cùng với cả Trung Quốc và Việt Nam. Nga sẽ không để ý các nước khác bình luận về điều này như thế nào", Alexander Khramchikhin bình luận. Một số nhà phân tích cho rằng, tập trận chung ở BIển Đông sẽ cung cấp cho Nga nhiều cơ hội lên tiếng hơn nữa.

Nga vui khi thấy Trung Quốc và Mỹ đối đầu ở Biển Đông, đồng thời hy vọng lực lượng quân sự Trung Quốc tập trung ở Biển Đông có thể gây phiền toái cho Mỹ. Trung Quốc càng dồn sức chống Mỹ, càng giảm áp lực cho Nga. Việc Nga bán cho Trung Quốc nhiều vũ khí, trong đó phần lớn là vũ khí hải quân đã bao hàm cả mục đích chính trị này, Konstantin Makiyenko - Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quân sự Nga bình luận.

 Hồng Thủy 

(Giáo Dục)

media
                                                  Đảo Trường Sa nhìn từ cầu Tàu. @rfi

Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định tổ chức chuyến du lịch Trường Sa đầu tiên vào ngày 22/06/2015. Theo Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc, Đại học New South Wales, biện pháp này nằm trong số các sách lược « phi đối xứng » mà Việt Nam sử dụng để thách thức yêu sách « chủ quyền không thể chối cãi » của Trung Quốc tại Biển Đông.

Trả lời phỏng vấn nhanh qua thư điện tử của Ban Tiếng Việt RFI, Giáo sư Thayer đã xem sáng kiến du lịch Trường Sa của Việt Nam là một cách khác nhằm khẳng định chủ quyền trong khu vực.

Thayer : Tour du lịch đến quần đảo Trường Sa là một hành động kín đáo khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Các chuyến du lịch này cũng nhằm trắc nghiệm phản ứng của Trung Quốc sau khi quan hệ bình thường Việt-Trung vừa được tái khởi động.

Nếu tàu chấp pháp trên biển của Trung Quốc can thiệp hoặc sách nhiễu tàu du lịch Việt Nam, thế giới sẽ coi đấy là một mưu toan cản trở thương mại hợp pháp. Nếu Trung Quốc không phản ứng, Việt Nam sẽ cảm thấy yên tâm phần nào.

Trong trường hợp Trung Quốc phản ứng bằng cách sách nhiễu tàu du lịch Việt Nam, Việt Nam chờ đợi là nước ngoài sẽ can thiệp về mặt chính trị nhân danh Việt Nam.

RFI : Tại sao Việt Nam lại tổ chức du lịch Trường Sa vào lúc này ?

Thayer : Trung Quốc đang bị nêu bật vì các hành động nạo vét đáy biển và rạn san hô để tạo ra các hòn đảo nhân tạo. Trung Quốc đã phản công bằng cách biện minh rằng họ chỉ hành động trong vùng thuộc chủ quyền của mình.

Đây là cơ hội giúp Việt Nam trắc nghiệm phản ứng của Trung Quốc – Liệu Trung Quốc có muốn bị thêm quảng cáo bất lợi hay là họ kiềm chế các hành động khiêu khích để trấn an Việt Nam ?

Các hoạt động du lịch không tác hại cho uy tín của chính quyền trung ương tại Hà Nội, vì về hình thức đó là sáng kiến ​​của chính quyền địa phương tại Thành phố Hồ Chí Minh.

RFI : Du lịch Trường Sa là một sáng kiến khôn ngoan ?

Thayer : Việt Nam luôn luôn phải sử dụng chiến thuật thông minh trong việc đấu tranh chống lại Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Sáng kiến này là một « thách thức phi đối xứng », nhắm vào tuyên bố của Trung Quốc về « chủ quyền không thể tranh cãi » của họ trên Biển Đông.

Sáng kiến ​​du lịch này không phô trương, và uy tín của chính phủ Việt Nam sẽ chỉ được nâng cao dưới mắt người dân trong nước. Tuy nhiên cũng có rủi ro. Nếu Trung Quốc sử dụng các chiến thuật thô bạo, và buộc Việt Nam lùi bước, điều đó có thể gây phản ứng ngược trong dư luận trong nước.

Đưa lên bàn cân thì đây có vẻ là một sáng kiến thận trọng và không mang tính khiêu khích.

Trọng Nghĩa

(RFI)

                         Trung Quốc đang có hoạt động bồi đắp quy mô lớn trên Bãi Chữ Thập

Các nhà lãnh đạo các nước công nghiệp hóa hàng đầu thế giới, tức nhóm G7, sẽ bày tỏ quan ngại về bất cứ hành động đơn phương nào để thay đổi hiện trạng ở khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhật báo Yomiuri của Nhật Bản cho biết hôm thứ Bảy ngày 6/6/2015.

Hội nghị thượng đỉnh G7 sẽ khai mạc ở Đức vào ngày mai Chủ nhật 7/6 và quy tụ lãnh đạo các nước Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Ý và Canada.

Vào cuối hội nghị, các nước G7 dự kiến sẽ ra tuyên bố kêu gọi duy trì trật tự quốc tế trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, tờ báo này cho biết nhưng không dẫn nguồn.

Sẽ không có nước nào bị nêu đích danh trong tuyên bố này, cũng theo nhật báo này.

Cách nay một năm, các nhà lãnh đạo G7 cũng bày tỏ quan ngại giữa Trung Quốc và một số nước châu Á xung quanh việc tranh chấp tài nguyên ở vùng Biển Hoa Đông và Biển Đông.

Các nước G7 đã cảnh báo không nên dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp.

Trung Quốc có đòi hỏi chủ quyền với hầu hết Biển Đông.

Chúng tôi tiếp tục quan ngại về tình hình Biển Hoa Đông và Biển Đông, bày tỏ quan ngại đối với bất cứ hành vi đơn phương nào làm thay đổi hiện trạng và gia tăng tình hình căng thẳng tương tự như việc lấn biển xây đảo quy mô lớn
Tuyên bố của Hội nghị ngoại trưởng G7

Nước này đang bị phê phán vì các hoạt động bồi đắp đảo của họ trên vùng biển này.

Sẽ ra tuyên bố về Biển Đông?

Hội nghị thượng đỉnh G7 năm nay sẽ diễn ra tại Schloss Elmau ở vùng Bavarian Alps.

Bà Angela Merkel, Thủ tướng nước chủ nhà, đã đưa vấn đề biến đổi khí hậu và phát triển bền vững lên ưu tiên nghị sự hàng đầu tại hội nghị G7 lần này.

Các nhà lãnh đạo cũng sẽ tập trung vào các vấn đề tăng trưởng, an ninh, đe dọa khủng bố và dịch bệnh.

Thủ tướng Anh David Cameron cho rằng vấn đề tham nhũng có sự liên hệ với tất cả những chủ đề trên và cần được thảo luận cởi mở.

Thượng đỉnh của nhóm G7, năm ngoái nhóm ở Bỉ, năm nay sẽ khai mạc ở Đức vào ngày 7/6/2015.

Ông dẫn số liệu của Ngân hàng Thế giới cho biết tham nhũng làm đội chi phí kinh doanh trên toàn cầu lên 10% với khoảng 1.000 tỷ đô la Mỹ tiền lót tay mỗi năm.

Hôm 15/4, Hội nghị Ngoại trưởng nhóm G7 ra tuyên bố bày tỏ quan ngại trước các hành động đơn phương làm thay đổi hiện trạng, làm gia tăng bầu không khí căng thẳng trên Biển Hoa Đông và Biển Đông.

Tuyên bố có đoạn:

“Chúng tôi tiếp tục quan ngại về tình hình Biển Hoa Đông và Biển Đông, bày tỏ quan ngại đối với bất cứ hành vi đơn phương nào làm thay đổi hiện trạng và gia tăng tình hình căng thẳng tương tự như việc lấn biển xây đảo quy mô lớn.”

Đáp lại, ngày 17/4, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói Trung Quốc trước sau như một chủ trương tranh chấp liên quan cần phải do nước đương sự trực tiếp giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương.

“Mong các nước liên quan tôn trọng đầy đủ những nỗ lực giữ gìn hoà bình và ổn định khu vực của các nước trong khu vực, làm nhiều việc có lợi cho hoà bình và ổn định của khu vực,” ông Hồng Lỗi tuyên bố.

(BBC)

Tuyên bố nồng mùi thuốc súng của Thời báo Hoàn Cầu được đưa ra sau khi truyền thông Úc cho biết, Canberra đang cân nhắc điều máy bay hoặc tàu đến Biển Đông.

                                                Chiến đấu cơ Trung Quốc, hình minh họa.

AFR ngày 5/6 đưa tin, Thời báo Hoàn Cầu, một tờ báo diều hâu của nhà nước Trung Quốc hôm nay kêu gọi Bắc Kinh có thể bắn hạ máy bay quân sự Úc nếu tiến vào khu vực lân cận đảo nhân tạo Trung Quốc đang bồi lấp, xây dựng (bất hợp pháp) ở quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam).

"Nếu một máy bay quân sự Úc đến theo kế hoạch, Trung Quốc nên sử dụng máy bay quân sự để đuổi nó đi như cách mà Nga đã làm. Nếu biện pháp này không hiệu quả, chúng ta chỉ cần bắn hạ nó là xong", tờ báo sặc mùi hiếu chiến tuyên bố. 

Tuyên bố nồng mùi thuốc súng của Thời báo Hoàn Cầu được đưa ra sau khi truyền thông Úc cho biết, Canberra đang cân nhắc điều máy bay hoặc tàu đến Biển Đông. Điều này có thể liên quan đến khả năng máy bay trinh sát RAAF của Úc tiến vào 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo (bất hợp pháp) Trung Quốc đang xây dựng.

"Chúng ta không nên chỉ phát cảnh báo như đã làm với Mỹ. Thay vào đó chúng ta nên tiếp đón hoành tráng khi nó đến. Điều này sẽ răn đe những ai còn lại (có ý định bay vào phạm vi 12 hải lý?)", Thời báo Hoàn Cầu viết. Bắc Kinh thường sử dụng các phương tiện truyền thông nhà nước kiểm soát chặt chẽ để phát cảnh báo và những lời đe dọa.

Thời báo Hoàn Cầu nổi tiếng là tờ báo hiếu chiến và các thông điệp của nó có thêm trọng lượng khi nó trực thuộc tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, AFR lưu ý. Bộ trưởng Quốc phòng Úc Kevin Andrews đã tuyên bố máy bay và tàu quân sự Úc sẽ tiếp tục các hoạt động tuần tra của riêng mình ở Biển Đông mà không nhất thiết là phải tiến hành cùng với Mỹ.

Giới phân tích cho rằng nhiều khả năng Bắc Kinh sẽ sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thương mại trong quan hệ với Canberra để gây sức ép trả đũa Úc về hành động của nước này ở Biển Đông. Tuy nhiên các động thái của Trung Quốc chủ yếu mang màu sắc chính trị chứ không phải kinh tế.

 Hồng Thủy

(Giáo Dục)

Hàng không mẫu hạm Mỹ
                                                            Hàng không mẫu hạm Mỹ

Mười nước có lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới gồm Mỹ, Nga, Trung Cộng, Ấn, Anh, Pháp, Đại Hàn, Nhật, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ (1). Mỹ vẫn đứng đầu về quân sự trên thế giới hiện nay, ngân sách quốc phòng Mỹ nay là 577 tỷ Mỹ kim, nhiều hơn ngân sách của tất cả các cường quốc quân sự khác cộng lại, số máy bay quân sự của Mỹ nay gần 14,000 cái, bằng số máy bay của tất cả 9 cường quốc quân sự trên thề giới cộng lại.

Về máy bay quân sự Mỹ có 13,892 chiếc, Nga 3,429, Trung Cộng 2,860, Ấn Độ 1900, Đại Hàn 1,412, Nhật 1,613, Anh 936, Pháp 1,264….Mỹ có 10 chiếc hàng không mẫu hạm tối tân khổng lồ, trọng tải trên 100,000 tấn, các cường quốc khác có một số ít hàng không mẫu hạm loại nhỏ, cũ trọng tải dưới 40,000 tấn như Ấn Độ có hai chiếc, Pháp có 4 chiếc dưới 30,000 tấn cũ kỹ chỉ có tính cách tượng trưng. Mỹ là nước duy nhất hiện nay có một lực lượng hàng không mẫu hạm hùng hậu và tối tân nhất thế giới, một vũ khí không lổ vô cùng lợi hại vì nó có thể mang hỏa lực tới mọi nơi trên thế giới. Nay chỉ có Mỹ đủ khả năng xử dụng hàng không mẫu hạm, nó vô cùng tốn kém và đòi hỏi một trình độ cao về khoa học quốc phòng.

Nước Nhật năm 1922 đóng hàng không mẫu hạm đầu tiên Hosho, họ chú ý đặc biệt tới loại tầu không lồ này, khi bắt đầu Thế chiến thứ hai, hải quân Nhật có 10 hàng không mẫu hạm tối tân và mạnh nhất hồi đó, Mỹ có 7 chiếc, Anh có 8 chiếc. Trận Trân Châu Cảng cuối năm 1941 gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ, nó đã mở đầu cho một thời đại mới: Thời đại tầu sân bay.

Hàng không mẫu hạm Nhật
                                                          Hàng không mẫu hạm Nhật

Trở lại tình hình các cường quốc quân sự châu Á Thấi Bình Dương gồm Mỹ, Trung Cộng, Ấn Độ, Nhật, Đại Hàn. Mặc dù không thuộc châu Á nhưng Hoa Kỳ có nhiều đồng minh và tự nhận là một cường quốc tại đây. Mấy năm gần đây Tập Cận Bình chủ trương bành trướng bá quyền nước lớn, đe dọa an ninh khu vực khiến các nước trong vùng đã phải tăng cường quốc phòng để tự vệ.

Xin sơ lược tình hình quân sự các cường quốc Á châu Thái Bình Dương.

Mỹ: xe tăng 8,850; thiết giáp 41,020; đại bác 3,200; máy bay quân sự 13,892; chiến hạm 473 tầu; hàng không mẫu hạm 10; ngân sách quốc phòng 577 tỷ (Mỹ kim)

Trung Cộng: xe tăng 9,150; thiết giáp 4,788, đại bác 8,000; máy bay quân sự 2,860; tầu chiến 673; hàng không mẫu hạm 1; ngân sách quốc phòng 145 tỷ.

Ấn Độ: xe tăng 6,664; thiết giáp 6,704; máy bay quân sự 1,900; đại bác 7,600; tầu chiến 202; hàng không mẫu hạm 2; ngân sách quốc phòng 38 tỷ

Đại Hàn: xe tăng 2,380; thiết giáp 2,660; đại bác 7,364; máy bay 1,412; tầu chiến 166; ngân sách quốc phòng 33 tỷ.

Nhật: xe tăng 678; thiết giáp 2,800; đại bác 700; máy bay 1,613; tầu chiến 131, hàng không mẫu hạm 2; ngân sách quốc phòng 41 tỷ.

Nay các nước Cộng sản Trung Cộng, Bắc Hàn cũng như nước CS cũ Nga trở thành những nước độc tài cá nhân do một người nắm quyền như thời Staline, Mao Trạch Đông. Tập Cận Bình lên nắm chính quyền nước Tầu từ mấy năm nay hiện là nhà lãnh đạo nhiều quyền lực nhất từ thời Đặng Tiểu Bình.

Năm 2002 ngân sách quốc phòng Trung Cộng khoảng 20 tỷ Mỹ kim, 10 năm sau 2012 đã tăng lên trên 100 tỷ, khoảng gấp 5 lần (2). Nay Hoa Lục công khai chính sách bành trướng tại biển đông khiến các quốc gia trong khu vực lo ngại. Họ lấn chiếm quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, kiến tạo đảo nhân tạo, lập căn cứ quân sự, vạch một đường lớn giữa hải phận quốc tế theo hình lưỡi con bò rồi nhận là hải phận của mình. Họ ban hành lệnh cấm máy bay các nước khác không được vi phạm không phận quốc tế mà họ coi là của mình. Trung Cộng ngày càng lộng hành cho tầu chiến bắt bớ, bắn phá tầu đánh cá các nước trong vùng.

Sự tranh chấp lãnh hải đã khiến các nước trong khu vực lo ngại và tăng ngân sách quốc phòng chống lại bá quyền nước lớn. Nước Nhật trước đây núp dưới cây dù nguyên tử Mỹ nay cũng tăng cường quốc phòng để đối phó, nhất là từ ngày Trung Cộng tranh chấp quần đảo Điểu Ngư với Nhật.

Vài thập niên trước đây, Mỹ và các nước phát triển Tây phương cũng như Á châu đầu tư mở mang giao thương với Trung Cộng, họ tưởng rằng một khi có nền kinh tế phồn thịnh Hoa Lục sẽ từ bỏ chế độc tài và trở nên hiền lành hơn. Trái với sự tin tưởng ngây thơ của Mỹ và Tây phương, thực tế cho thấy nay càng giầu mạnh về kinh tế Trung Cộng lại càng hung hãn hơn trước, tăng cường quân sự hơn trước.

Khác với chính phủ Bush trước đây chú trọng vào Trung Đông, TT Obama quay trở lại Đông nam Á vì Mỹ có nhiều quyền lợi kinh tế tại đây. Từ thập niên 80 người Mỹ đã nhìn nhận Châu Á Thái Bình Dương là một nền văn minh đang đi lên. Gần đây Mỹ tỏ ra cứng rắn không nhượng bộ Trung Cộng và cho thấy Mỹ vẫn là cường quốc tại Á châu đã suýt sẩy ra đụng chạm hai bên. Nay Trung Cộng có tiến bộ về kinh tế và tăng cường quốc phòng nhưng thực ra chưa đủ mạnh để uy hiếp Mỹ và các cường quốc khác tại Á châu. Mặc dù Mỹ bị suy thoái kinh tế thập niên vừa qua nhưng về quân sự vẫn còn quá mạnh, về số lượng máy bay quân sự Mỹ vẫn gấp 4 lần Nga, gấp 5 lần Trung Cộng chưa kể mắt phẩm trội hơn nhiều.

Năm 1998 Trung Cộng mua lại một tầu cũ bỏ hoang phế của Ukraine chỉ có khung tầu, không động cơ và bánh lái, năm 2002 được kéo về Hoa Lục năm 2011 mới đóng xong thành tầu sân bay đầu tiên của Hoa Lục đặt tên là Liêu Ninh. Trung Cộng vội vã thực hiện một tầu sân bay để hù dọa các nước trong vùng, đây chỉ là một tầu loại nhỏ trọng tải 33,000 tấn chỉ bằng 1/3 một hàng không mẫu hạm Mỹ. Đối với Mỹ, Nhật là những nước đã có nhiều kinh nghiệm về hàng không mẫu hạm thì tầu sân bay Liên Ninh chỉ là một trò hề, trò cười không hơn không kém. Cách đây hai năm, một ông Tướng bốn sao của Nhật đã tỏ ra khinh thường Trung Cộng khi tuyên bố hải quân và không quân Hoa Lục còn lạc hậu từ 10 tới 20 năm so với Nhật về nhiều phương diện.

Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc
                                            Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc

Như đã nói trên ngân sách quốc phòng của Mỹ nay nhiều hơn ngân sách của các cường quốc trên thế giới cộng lại, gần gấp 10 lần Nga (60 tỷ), gấp 4 lần Trung Cộng (145 tỷ), gấp 11 lần Anh, gấp 12 lần Nhật….số máy bay quân sự của Mỹ gần 14,000 chiếc bằng số máy bay quân sự của các cường quốc trên thế giới cộng lại nhưng Mỹ vẫn bị Nga và Trung Cộng khích bác, gây khó khăn. Sở dĩ như vậy vì họ biết Mỹ mạnh về quân sự nhưng lại yếu về chính trị, Tổng thống không có nhiều thực quyền mà phải phụ thuộc vào ý kiến của người dân và Quốc hội. Tại trận Điện Biên Phủ tháng 4-1954, Mao Trạch Đông ra lệnh tăng cường cho Việt Minh nhiều tiểu đoàn phòng không và pháo binh thì lệnh của Mao được thi hành ngay trong khi ấy Mỹ muốn giúp Pháp nhưng không được Quốc hội và người dân ủng hộ cuối cùng phải thất bại.

Gần đây Mỹ-Hoa đã suýt đụng độ tại Biển Đông và người ta sợ có thể đưa tới Thế chiến thứ ba, nhưng thực ra dù căng thẳng tới đâu cũng không thể sẩy ra Thế chiến vì trong lịch sử đã nhiều lần “suýt” sẩy ra nhưng cả hai bên đều dàn xếp êm đẹp.

Đầu thập niên 60 Mỹ cho đặt hỏa tiễn tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ý nhắm vào Moscow, Khrushchev trả đũa cho đặt hỏa tiễn tại Cuba đe dọa Mỹ. Tháng 10-1963 máy bay do thám U-2 của Mỹ khám phá ra hỏa tiễn tầm trung nguyên tử tại Cuba, TT Kennedy làm dữ cho ngăn chận tầu Nga mang hỏa tiễn tới và buộc Nga phải tháo gỡ hỏa tiễn đã gắn tại Cuba. Kennedy và Khrushchev đã đàm phán căng thẳng, Nga tháo gỡ hỏa tiễn tại Cuba, Mỹ cũng bí mật tháo gỡ hỏa tiễn tại Ý, Thổ Nhĩ Kỳ đem về.

Sau đó Mỹ-Nga thỏa thuận thiết lập đường giây điện thoại nóng giữa Moscow và Washington để ngăn ngừa Thề chiến mà cả hai bên cùng sợ, tình hình đã dịu sau đó. Thế chiến “suýt” sẩy ra nhưng cả hai bên đều đã sợ hết hồn nên sẽ chẳng bao giờ sẩy ra được. Cũng có giả thuyết cho rằng TT Kennedy bị ám sát vì người ta sợ ông có thể gây Thế chiến thứ ba.

Giống như biến cố Cu ba nêu trên, đụng độ Mỹ-Hoa tại Biển Đông rất khó có thể sẩy ra, mặc dù Trung Cộng hung hăng nhưng trong thâm tâm họ thừa biết hậu quả khốc liệt sẽ dành cho Hoa Lục một khi chiến tranh sẩy ra. Dù đụng trận nhỏ nhưng ảnh hưởng sẽ vô cùng lớn lao, các nước ngoài sẽ rút đầu tư, việc giao thương sẽ bị ngưng trệ đưa tới khủng hoảng kinh tế.

Mỹ có thể đem chiến tranh tới Hoa Lục vì họ có nhiều hàng không mẫu hạm, nhiều hạm đội và các căn cứ tại Nhật, Phi Luật Tân, Nam Hàn… ngược lại Trung Cộng không có khả năng mang chiến tranh tới đất Mỹ. Trong trường hợp có đánh lớn, Hoa Lục sẽ trở thành bãi chiến trường tan nát vì bom đạn, công trình mà họ đã xây dựng mấy chục năm qua tại các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải sẽ tiêu tan trong phút chốc. Hoa Lục chẳng dại gì mà lao đầu vào cuộc phiêu lưu tự sát.

Người Mỹ có khuynh hướng bỏ Trung Đông, Ukraine để quay về Thái Bình Dương vì nơi đây họ có nhiều quyền lợi kinh tế, vấn đề Ukraine sẽ để các nước Liên Âu tự liệu. Các cường quốc châu Âu Pháp, Anh, Đức… chỉ có một ngân sách quốc phòng khiêm tốn từ 50 tỷ trở xuống, chưa được 1/10 ngân sách quốc phòng Mỹ. Họ đã quen núp dưới cây dù nguyên tử của Mỹ. Nhiều nước Tây Âu nhất là Pháp núp dưới cây dù nguyên tử Mỹ nhưng vẫn chống Mỹ tại cuộc chiến Iraq và Việt Nam trước đây.

Nay Hoa Kỳ đã mệt mỏi và muốn các nước đồng minh châu Âu phải chia sẻ gánh nặng với họ.

© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt

Chú thích
(1) Globalfirepower.com
(2) Military budget of the People’s Republic of China, Wikipedia

Mặc dù Bộ Ngoại giao Philippines cho biết, thông tin một tàu chiến Trung Quốc bắn cảnh cáo một tàu đánh cá Philippines ở khu vực gần bãi Đá Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hiện đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép - PV) chưa được xác minh, nhưng vụ việc cũng đã làm dấy lên lo ngại trong giới chức quân sự Philippines.


Hình ảnh vệ tinh chụp ngày 4/3/2015 bãi Đá Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) bị Trung Quốc chiếm đóng và xây đảo nhân tạo bất hợp pháp

Trước đó, báo chí Philippines dẫn lời ông Pasi Abdulfatah, một chủ tàu đánh cá của Philippines, tố cáo việc khi tàu của ông đang đánh bắt cá ở gần bãi Đá Gạc Ma hôm 4/6 thì bị một tàu chiến Trung Quốc nổ súng cảnh cáo. Quá sợ hãi, các ngư dân đã lái tàu rời khỏi khu vực này và di chuyển đến gần một khu vực do Việt Nam kiểm soát.

Tuy nhiên, chủ tàu cho biết, do thường xuyên bị tàu Trung Quốc đe dọa và quấy rối nên ngư dân đã quen, nên ít khi báo cáo với cơ quan chức năng và trong vụ việc này cũng vậy.

Đô đốc Alexander Lopez, Chỉ huy Bộ Tư lệnh miền Tây quân đội Philippines –đơn vị chủ lực phụ trách khu vực biển Đông mà Manila gọi là biển Tây Philippines cho hay, do không nhận được báo cáo nào từ ngư dân nên không thể đưa ra bình luận hay có cơ sở để phản ứng được.

Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin bày tỏ lo ngại về vụ việc: “Chúng tôi chưa nhận được bất kỳ báo cáo nào nhưng nếu thực sự điều này xảy ra thì đây là một nguyên nhân gây ra lo ngại nghiêm trọng”.

Khu vực xảy ra sự cố gần bãi Đá Gạc Ma và cũng gần với bãi Đá Vành Khăn – đều là những bãi đá đã bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp và đang bồi đắp, xây dựng trái phép các cơ sở bị nghi ngờ là phục vụ cho mục đích quân sự như công sự kiên cố, đường băng, hải đăng đa chức năng… với quy mô lớn và tốc độ chóng mặt. Điều này khiến các nước láng giềng của Bắc Kinh và cộng đồng quốc tế vô cùng quan ngại về khả năng Trung Quốc sẽ quân sự hóa các đảo nhân tạo mới hình thành, biến các nơi này thành tiền đồn giúp nước này khống chế phi pháp toàn Biển Đông - nơi mà 5.000 tỉ đôla thương mại tàu thuyền đi qua mỗi năm.

Trước đó, hồi tháng 4/2015, Chỉ huy Bộ Tư lệnh miền Tây quân đội Philippines cũng đã lên tiếng xác nhận có xảy ra chuyện các tàu chiến Trung Quốc xua đuổi máy bay tuần tra của Hải quân Philippines chở bệnh nhân ra khỏi đảo Thị Tứ (thuộc quần đảo Trường Sa) đi điều trị tại đất liền. Tuy nhiên, ông Lopez khẳng định không có chuyện tàu Trung Quốc bắn đạn vào xung quanh máy bay của Philippines như những gì mà một số trang mạng của nước này đã thông tin.

Linh Phương (theo Năng Lượng Mới)

(Petrotimes) 

Tân Hoa Xã dẫn phát biểu của đại sứ Trung Quốc tại Mỹ, Thôi Thiên Khải, nói rằng Bắc Kinh hy vọng Washington sẽ thôi có lời nói và hành động ép buộc chống lại Trung Quốc trong vấn đề này.
Tân Hoa Xã dẫn phát biểu của đại sứ Trung Quốc tại Mỹ, Thôi Thiên Khải, nói rằng Bắc Kinh hy vọng Washington sẽ thôi có lời nói và hành động ép buộc chống lại Trung Quốc trong vấn đề này.

Trung Quốc yêu cầu Mỹ có hành động thực tế hạ nhiệt căng thẳng liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông.

Tân Hoa Xã ngày 5/6 dẫn phát biểu của đại sứ Trung Quốc tại Mỹ, Thôi Thiên Khải, trong cuộc phỏng vấn với đài CNN một ngày trước đó nói rằng Bắc Kinh hy vọng Washington sẽ thôi có lời nói và hành động ép buộc chống lại Trung Quốc trong vấn đề này.

Đại sứ Trung Quốc đề cập tới những lời kêu gọi của Mỹ đề nghị Bắc Kinh ngưng các hoạt động lấp biển lấy đất trong khu vực cùng những lời tuyên bố của Washington rằng sẽ tiếp tục cho tàu và máy bay quân sự Mỹ di chuyển ngang qua các đảo và các bãi đá nơi mà Trung Quốc đang cho xây dựng các cơ sở chủ yếu là dân sự.

Bất chấp căng thẳng gia tăng giữa hai nước Mỹ-Trung xuất phát từ vấn đề Biển Đông, đại sứ Trung Quốc nói ông tin là đôi bên sẽ không đi tới đối đầu trong vấn đề này:

“Tôi nghĩ hai nước không nên để vấn đề đơn lẻ này chiếm ưu thế nghị trình làm việc song phương. Cho nên, tôi không tin là hai bên sẽ đi tới đối đầu và xung đột chỉ vì vấn đề này.”

Ông Thôi Thiên Khải cũng bác tố cáo của Hoa Kỳ nói rằng Trung Quốc đang thay đổi nguyên trạng Biển Đông, viện dẫn các hành động xây dựng tương tự mà các nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền trong khu vực đã tiến hành trước đó.

Đại sứ Trung Quốc nói: “Tôi nghĩ nguyên trạng Biển Đông đã bị thay đổi bởi các nước khác từ lâu, lâu lắm rồi. Những gì chúng tôi đang làm là khôi phục lại nguyên trạng vốn dĩ của nó. Cho nên không có lý do gì để các nước đưa ra các tố cáo như thế đối với Trung Quốc.”

Đại diện của Bắc Kinh tại Hoa Kỳ nhắc lại quan điểm của Trung Quốc rằng các hoạt động của họ ở Biển Đông hoàn toàn trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, chủ yếu phục vụ các mục đích dân sự. Ông Thôi nói thêm rằng các cơ sở Trung Quốc đang xây ‘chủ yếu sẽ hỗ trợ tàu bè của Trung Quốc và của các nước khác.’

Tuy nhiên, giới chức ngoại giao này cũng thừa nhận là Trung Quốc có một số cơ sở quốc phòng tại đây.

Ông Thôi Thiên Khải nói: “Dĩ nhiên chúng tôi có một số cơ sở quốc phòng ngoài đó, nhưng chỉ để tự vệ.”

Ngược lại, đại sứ Trung Quốc chỉ trích việc Washington tiếp tục phái máy bay do thám quân sự ra khu vực để thăm dò các hoạt động của Bắc Kinh là ‘đi ngược lại với Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển.’

Đáp câu hỏi liệu Trung Quốc có ý định lập vùng nhận dạng phòng không ADIZ ở Biển Đông hay không, ông Thôi nhấn mạnh Bắc Kinh có quyền làm như vậy, nhưng sẽ làm điều này dựa trên ‘đánh giá tình hình’ và ‘sẽ làm một cách cẩn trọng.’

Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách Đông Á-Thái Bình Dương Daniel Russel hôm 22/5 cảnh cáo Trung Quốc chớ thách thức hải quân Mỹ ở Biển Đông.
Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách Đông Á
-Thái Bình Dương Daniel Russel hôm 22/5
cảnh cáo Trung Quốc chớ thách thức hải quân
 Mỹ ở Biển Đông.
Đại sứ Thôi cũng lưu ý rằng Hoa Kỳ là nước đầu tiên lập vùng ADIZ và hiện có trên 20 nước đã làm như vậy.

Đại sứ Trung Quốc bày tỏ kỳ vọng lợi ích chung giữa hai nước Mỹ-Trung sẽ vượt xa những bất đồng và đôi bên có thể hợp tác trong nhiều vấn đề.

Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách Đông Á-Thái Bình Dương hôm 22/5 cảnh cáo Trung Quốc chớ thách thức hải quân Mỹ ở Biển Đông sau tin cho hay máy bay săn ngầm hiện đại P-8A Poseidon của hải quân Mỹ bị hải quân Trung Quốc xua đuổi khi bay tuần tại khu vực quần đảo Trường Sa mà Bắc Kinh đang có hoạt động xây dựng.

Ông Daniel Russel khẳng định các chuyến bay tuần của Mỹ ở Biển Đông là hợp pháp vì trong không phận quốc tế.

Ngũ Giác Đài đã loan báo đang tính tới việc gửi tàu chiến và máy bay do thám vào phạm vi 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng ở Biển Đông.

Theo Xinhua/Bernama

(VOA)

Tổng thống Philippine President Benigno Aquino và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (phải) trong cuộc đàm phán song phương hôm 4/6.
Tổng thống Philippine President Benigno Aquino và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (phải) trong cuộc đàm phán song phương hôm 4/6.

Tuần này, tổng thống Philippines đã đến Nhật Bản, nơi ông phát biểu trước các cử tọa thân thiện về những khẳng định chủ quyền biển rộng lớn của Trung Quốc.

Căng thẳng về tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc đang tăng thêm ở cả Manila lẫn Tokyo, nhưng không ảnh hưởng gì đến việc kéo chậm đà các nỗ lực của Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo trong vùng biển Hoa Nam. 

Mấy chục người biểu tình đã phất những biểu ngữ dưới trời nắng gắt bên ngoài lãnh sự quán Trung Quốc ở vùng trung tâm Manila hôm qua. Họ phản đối công trình lấp đất của Trung Quốc trên những hòn đảo bành trướng không ngừng mà Philippines đòi chủ quyền trong Biển Đông, mà Philippines gọi là biển Tây Philippines.

Giáo viên lịch sử Raymond Basilio cho biết tuần trước ông đã quyết định phản đối bằng cách ngưng không sử dụng sữa, đồ hộp và mì của Trung Quốc.

Ông nói: “Phần lớn các hàng hóa ở Philippines ngay lúc này đều sản xuất ở Trung Quốc, vì thế nếu người Philippines chúng ta bắt đầu tẩy chay thì có lẽ sẽ nói lên được điều gì đó.”

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn hàng thứ ba của Philippines. Nhưng Manila đang lâm vào một vụ tranh chấp ngoại giao gay gắt với Bắc Kinh về chủ quyền những bãi đá nhỏ bé thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.

Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn bố vùng biển giàu tài nguyên và nhiều thuyền bè qua lại, và nói rằng họ có “chủ quyền không tranh cãi được” ở đó. Brunei, Malaysia, Đài Loan và Việt Nam cũng có các khẳng định chủ quyền chồng chéo trong vùng biển này.

Philippines nhận chủ quyền 6 trong 7 bãi đá mà Trung Quốc đang xây dựng thành các đảo nhỏ bao phủ khoảng 800 hecta. Nhiều hòn đảo lớn đủ để cung cấp tiện nghi cho các tàu hải quân và làm sân bay quân sự.

Trong những tuần lễ vừa qua, các giới chức Hoa Kỳ đã gia tăng sự chống đối công khai đối với việc Trung Quốc lấn đất, và phái các máy bay trinh sát đến gần các hòn đảo nơi hải quân Trung Quốc đã nhấn mạnh họ phải rời đi.

Tại Philippines, có sự ủng hộ lớn dành cho việc chống đối Trung Quốc, nhưng một số người như Tổng thư kỳ Đảng Liên minh Mới Renato Reyes nói rằng Manila nên làm việc này chủ yếu không dựa vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ.

Ông nói: “Người dân Philippines sẽ không cho phép xâm nhập vào lãnh hải của chúng ta, xâm nhập vào Đặc khu Kinh tế của chúng ta. Chúng ta sẽ không cho phép họ xua đuổi ngư dân của chúng ta, và chúng ta chống đối việc hung hăng lấn đất đang được tiến hành.”

Mưu tìm hậu thuẫn

Tranh thủ hậu thuẫn từ bên ngoài trong vụ tranh chấp biển nằm cao trong nghị trình của Tổng thống Philippines Benigno Aquino trong một chuyến công du Nhật Bản tuần này. Sau cuộc hội kiến, Thủ tướng Shinzo Abe và ông Aquino đã đưa ra một thông cáo chung bày tỏ “quan ngại nghiêm trọng” về việc lấn đất.

Vào đầu chuyến thăm, Tổng thống Aquino kêu gọi Hoa Kỳ đóng một vai trò lơn hơn trong việc bảo toàn vùng biển có tranh chấp. Sau đó trong một bài phát biểu trước quốc hội Nhật Bản, ông đã so sánh việc lấn đất với các hoạt động bành trướng của Đức trước Thế chiến thứ hai. Ông nêu câu hỏi liệu ngăn chặn Adolf Hitler vào lúc đó có giúp tránh được toàn bộ cuộc chiến tranh hay không.

Tôi hết sức kinh ngạc trước các nhận định phi lý và quá đáng của nhà lãnh đạo Philippines và bày tỏ sự bất mãn và cực lực chống đối của tôi. Xét lại các diễn biến của các vụ tranh chấp ở biển Hoa Nam cho chúng ta thấy rằng chính Philippines mới chiếm đóng bất hợp pháp một số hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) bằng vũ lực từ thập niên 1990.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói.

Hôm qua, nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh đã bày tỏ sự bất bình trước các nhận định đó.

Bà nói: “Tôi hết sức kinh ngạc trước các nhận định phi lý và quá đáng của nhà lãnh đạo Philippines và bày tỏ sự bất mãn và cực lực chống đối của tôi. Xét lại các diễn biến của các vụ tranh chấp ở biển Hoa Nam cho chúng ta thấy rằng chính Philippines mới chiếm đóng bất hợp pháp một số hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) bằng vũ lực từ thập niên 1990.”

Hôm nay, ông Aquino nói với các phóng viên làm việc ở Nhật Bản rằng Manila và  Tokyo sẽ thiết lập một Thỏa thuận Lực lượng Viếng thăm, một sự bổ sung được hoan nghênh đối với một nước với ngân sách quân sự nằm trong số nhỏ nhất ở Đông Nam Á.

Chuyên gia về an ninh Rommel Banlaoi thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình, Bạo lực và Khủng bố Philippine nói củng cố quan hệ với Nhật Bản sẻ giúp đem lại cho Philippine một vài lợi thế trong việc đối phó với Trung Quốc.

Tuy nhiên ông nói việc chống đối Trung Quốc cũng có điểm bất lợi: “Chính phủ hiện thời đang theo đuổi một chủ trương thân Mỹ quá đáng trong chính sách đối ngoại và an ninh. Vì thế chính phủ Philippines chấp nhận liên minh với Hoa Kỳ bất chấp mối quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, hiện đang xuống tới mức thấp nhất trong lịch sử hai nước.”

Manila đang theo đuổi một vụ kiện Bắc Kinh tại tòa án Trọng tài thường trực, nêu nghi vấn về điều họ gọi là “những khẳng định chủ quyền quá đáng” của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc bác bỏ việc trọng tài và không tham gia vụ kiện, theo dự kiến sẽ kết thúc vào đầu năm tới.

Simone Orendain

(VOA)

media
                 Ông Phay Siphan trong phòng thu đài RFI ở Cam Bốt. ( Ảnh chụp tháng 3/2015 )

Sau những lời cảnh cáo của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong tuần qua rằng các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Biển Đông đe dọa ổn định trong khu vực Đông Nam Á, Phnom Penh không ngần ngại lên tiếng bênh vực Bắc Kinh và chỉ trích Washington. Theo nhật báo Cambodia Daily, số ra hôm nay, 04/06/2015, phát ngôn viên chính phủ Cam Bốt đã cho rằng các tuyên bố gần đây của ông Ashton Carter mang tính « khiêu khích » và đe dọa nền hòa bình mà Mỹ tuyên bố sẽ bảo vệ.

Theo tờ báo Anh ngữ xuất bản tại Phnom Penh, Quốc vụ khanh tại Hội đồng Bộ trưởng Cam Bốt Phay Siphan, đồng thời là phát ngôn viên chính phủ, đã nhận định rằng sở dĩ tình hình căng thẳng trên biển hiện nay gia tăng, phần lớn đó là vì những lời đe dọa của ông Carter gửi tàu chiến và máy bay do thám tiến vào bên trong khu vực 12 hải lý (22 km) chung quanh các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông.

Đối với ông Siphan, đó là những lời lẽ mang tính chất « khiêu khích… đi ngược lại mục tiêu duy trì hòa bình trong khu vực ».

Cho đến nay, là quốc gia được Trung Quốc hết sức ve vãn, Cam Bốt bị cho là luôn đứng về phía Bắc Kinh trong tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và bốn đồng minh của Cam Bốt trong khối Đông Nam Á ASEAN là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Bruneii.

Một ví dụ rõ rệt nhất là việc Cam Bốt, trong tư cách là chủ tịch luân phiên ASEAN, đã sẵn sàng để cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN năm 2012 thất bại, không ra được thông cáo chung, chỉ vì Phnom Penh kiên quyết không đề cập tới vấn đề Biển Đông.

Cam Bốt dĩ nhiên đã phủ nhận các cáo buộc bênh Trung Quốc, lần này cũng thế. Tuy nhiên, ông Siphan đã lặp lại lời cảnh báo mà Trung Quốc đã gởi đến Mỹ, yêu cầu Washington không nên thực hiện những lời đe dọa nếu không muốn gánh chịu hậu họa.

Sau khi cho rằng Biển Đông không của riêng ai, nhân vật này khẳng định : « Chính phủ Cam Bốt không muốn nhìn thấy tàu chiến hoặc bất kỳ một hành động gây hấn nào tại Biển Đông. Bất kỳ quốc gia nào gây nên loại phản ứng đó (tức là gây hấn) phải chịu trách nhiệm nếu xẩy ra xung đột ».

Nhật báo Cambodia Daily đã nhắc lại là mới đây, vào tháng Tư vừa qua, Bộ Ngoại giao Cam Bốt đã cho rằng ASEAN nên đứng ngoài các tranh chấp Biển Đông và để cho các thành viên có liên can tự mình giải quyết tay đôi với Trung Quốc.

Theo tờ báo Cam Bốt, trên đây cũng là một quan điểm của Trung Quốc, vốn đã trở thành cản lực cho các cuộc đàm phán.

Trọng Nghĩa

(RFI)

(Gs Vũ Cao Đàm dịch nguyên bản tiếng Tàu trên báo điện tử Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn).

Quần đảo Nam Sa (Việt Nam gọi là Trường Sa) vốn dĩ là chuỗi ngọc trai lấp lánh của đất mẹ Trung Hoa, nhưng lại bị nhiều kẻ trộm cắp, muốn chiếm đoạt, giành giật, việc này chỉ làm phân tán đi ánh hào quang của chuỗi ngọc trai mà thôi. Trong số các đảo bị các nước chiếm đoạt, bọn Việt Nam kiêu ngạo, vong ơn bội nghĩa đã ráo riết chiếm đóng quần đảo với số lượng nhiều nhất.

 Nghĩ lại mà xem, Việt Nam vốn xưa là phiên thuộc của nước ta. Năm 1885, theo Thỏa ước Pháp – Thanh, Việt Nam đã bị nhượng lại cho Pháp, dần trở thành thuộc địa của Pháp. Sau hai cuộc chiến tranh, Trung Quốc đã giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hai miền Nam Bắc đã được thống nhất. Nhưng thật không ngờ bọn Việt Nam không những không biết ơn Trung Quốc, mà trái lại đã lấy oán báo ân, tự vỗ ngực xem mình là nước có tiềm lực quân sự lớn thứ ba thế giới, liên tiếp khiêu khích Trung Quốc. Mặc dù qua hai bài học, là cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt và chiến tranh Bãi đá ngầm, nhưng Việt Nam vẫn không nhận ra được bài học, càng ra sức chiếm đoạt nhiều đảo hơn.

Do bọn Việt Nam bắt tay thực hiện khai thác đảo sớm nên điều kiện chiếm cứ thuận lợi hơn, hơn nữa lại có nguồn nước ngọt nên bọn chúng có thể thi công trên đảo, xây dựng sân bay, kiến tạo hạ tầng kỹ thuật thông tin di động, di dân ra đảo, tổ chức du lịch quốc tế, thiết lập phân chia ranh giới khu hành chính cấp huyện hòng vĩnh cửu hóa, thực tế hóa, quốc tế hóa, hợp pháp hóa hành vi bá chiếm. Tiếp đó các nước khác cũng lần lượt theo đuôi Việt Nam, như Philipin, Malaysia, Indonesia, Bruney… xâu xé vùng biển Nam Sa của Trung Quốc, xây dựng căn cứ quân sự hoặc khoan dầu mỏ. Tất cả bọn chúng đều không coi Trung Quốc ra gì.

Các nước xung quanh xâm chiếm quần đảo Nam Sa đúng vào thời kỳ đất nước Trung Quốc chúng ta tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện chiến lược đối ngoại hòa bình, tập trung xây dựng kinh tế trong nước, duy trì hòa bình phát triển với bên ngoài. Cùng là những nước đang phát triển đáng ra Việt Nam và các nước lân cận phải có thiện ý giải quyết hài hòa những tranh chấp. Đất nước chúng ta đề xướng ra mục tiêu “gác lại chiến tranh, cùng nhau phát triển”. Tuy nhiên, 30 năm qua, lòng tốt của chúng ta lại không hề được báo đáp, mà trái lại các nước còn không ngừng tăng cường lấn chiếm khu vực biển của nước ta, ngang nhiên chiếm lãnh hải, lãnh thổ nước ta. Không khó khăn lắm, chúng ta cũng có thể nhận ra rằng, lòng tốt của chúng ta không được

Ủy ban thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc quy định, 12/5/2009 là kỳ hạn cuối cùng cho các quốc gia có liên quan phải hoàn thành việc gửi những bản giải trình các luận cứ khoa học về chủ quyền thềm lục địa và khu kinh tế đặc quyền. Tình hình phát triển còn làm phức tạp hóa vấn đề, sự xoay chuyển của thời gian sẽ làm cho chúng ta càng thêm bất lợi, nếu cứ tiếp tục kéo dài sự khoan dung của chúng ta thì kẻ khác sẽ cho rằng chúng ta đã chấp nhận, bằng lòng với việc đó. Vì thế, biện pháp có hiệu quả là phải dùng lực lượng quân sự chiếm đoạt lại Nam Sa, và phải đưa việc này vào chương trình nghị sự.

Chúng ta phải thấy một thực tế rằng, mức độ xâm phạm của các nước có liên quan đối với lợi ích của nước ta là khác nhau, do điều kiện môi trường và địa vị quốc tế khác nhau nên sẽ có những phản ứng khác nhau đối với hoạt động quân sự của nước ta, vì vậy mà chúng ta cần phải có những cách đối xử khác nhau, giải quyết tốt những mâu thuẫn chủ yếu, thúc đẩy giải quyết những mâu thuẫn thứ yếu. Không còn nghi ngờ gì nữa, mục tiêu tấn công chủ yếu của chúng ta phải là Việt Nam.

Chúng ta có đầy đủ lý do để tấn công Việt Nam, Việt Nam cũng có đầy đủ điều kiện để trở thành vật tế của trận chiến thu hồi Nam Sa :

1. Việt Nam xâm chiếm nhiều đảo nhất, có nguy hại lớn nhất, hơn nữa có thái độ kiêu ngạo nhất, ảnh hưởng xấu nhất. Trước tiên ta thu hồi lại những đảo mà Việt Nam chiếm đóng là có thể thu hồi lại hầu hết các đảo bị chiếm, khống chế được toàn bộ. Lấy gương xua đuổi thành công quân Việt Nam để răn đe các nước khác buộc chúng phải tự mình rút lui.

2. Trước đây, Việt Nam đã nhất nhất thừa nhận Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Những bài phát biểu của các quan chức, bản đồ quân sự, tài liệu địa lý đều là những bằng chứng xác thực, cho đến sau khi thống nhất đất nước thì Việt Nam có những thái độ bất thường, có yêu cầu về lãnh thổ lãnh hải đối với Tây Sa và Nam Sa. Việt Nam ngấm ngầm thọc lưng Trung Quốc, tiền hậu bất nhất, đã làm mất đi cái đạo nghĩa cơ bản, khiến quân đội của chúng ta phải ra tay, với lý do đó để lấy lại những vùng biển đảo đã mất.

3. Việt Nam có lực lượng quân sự lớn nhất Đông Nam Á. Hơn nữa lại đang tăng cường phát triển lực lượng hải quân, không quân để đối đầu với ta. Quân đội của ta có thể phát động cuộc chiến Nam Sa, cho dù quân đội Việt Nam đã có chuẩn bị. Với chiến thắng trong cuộc chiến này, hoàn toàn có thể làm cho các nước khác thua chạy, không đánh mà lui.

Đây là cách để loại trừ Việt Nam, làm cho Việt Nam ngày càng lụn bại.

4. Hai nước Trung – Việt xích mích đã lâu, đã từng nảy sinh tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải, lần này lại xảy ra xung đột quân sự. Đây là điều mà thế giới đã dự đoán và đã sớm nghe quen tai với việc này, chắc chắn phản ứng sẽ nhẹ nhàng hơn. Trái lại, nếu tấn công vào các nước như Philipin thì phản ứng quốc tế nhất định sẽ rất mạnh mẽ.

5. Các nước khác tuy cùng trong khối ASEAN nhưng chế độ xã hội và ý thức hệ khác với Việt Nam, các nước khác lại ủng hộ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, thời gian đó đã sinh ra những khúc mắc. Là liên minh ASEAN, khi chúng ta phát động chiến tranh thu hồi lại Nam Sa ắt sẽ gặp phải sự phản đối của ASEAN, nhưng hậu quả của cuộc tấn công Việt Nam sẽ tương đối nhỏ, vì Việt Nam đã từng có ý đồ thiết lập bá chủ khu vực, việc này đã làm cho các nước láng giềng có tinh thần cảnh giác, việc làm suy yếu lực lượng quân sự của Việt Nam cũng là điều tốt cho các nước ASEAN.

6. Tình hình quốc tế gần đây có lợi cho việc giải quyết vấn đề Nam Sa. Quan hệ Trung – Mỹ ; Trung – Nga đang ở thời kỳ tốt nhất, không phải vì thế mà dẫn đến sự đối đầu về quân sự giữa các nước lớn. Quân đội Mỹ đang sa lầy vào chiến trường Afganistan, Iraq và vẫn phải chuẩn bị ứng phó với chiến tranh có thể xảy ra với Iran, chưa rảnh tay để quan tâm tới chiến sự Nam Sa. Hơn nữa tranh chấp đảo giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, tranh chấp giữa Campuchia và Thái lan đều sẽ làm phân tán sự chú ý của cộng đồng quốc tế.

7. Quần đảo Nam Sa là một vị trí chiến lược không thể thiếu của Trung Quốc trên trận tuyến kéo dài từ Trung Đông đến Viễn Đông, tuy eo biển Malacca là con đường yết hầu nhưng quần đảo Nam Sa không phải là không có vị trí chiến lược.
Có được Nam Sa sẽ uy hiếp được Malacca, yểm trợ các đường ống dẫn dầu, Nam Sa là một trong những vùng hiểm yếu, Trung Quốc quyết không ngần ngại chiến đấu để thu hồi Nam Sa.

8. Lấy chiến tranh để luyện tập quân đội, lấy việc thực hiện chiến tranh để kiểm nghiệm và nâng cao năng lực chiến đấu của quân ta, tình hình phát triển của hai bờ Đài Loan – Hải Nam có thể đảm bảo để hai bên bờ sẽ không xảy ra chiến tranh trong tương lai gần, giải quyết triệt để vấn đề Nam Hải, trong khi thực hiện chiến tranh trên biển phải khảo sát những thiếu sót của hải quân, không quân của Trung Quốc để kịp thời nhận diện những khiếm khuyết, cải thiện, nâng cấp, nhằm phát triển càng nhanh càng tốt lực lượng hải quân không quân của ta, để chứng tỏ rằng quân đội ta là lực lượng quân đội theo mô hình mới, có kinh nghiệm chiến đấu hiện đại, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến sự Đài Loan – Hải Nam hoặc để đối phó với những thách thức khác có thể phát sinh. Lực lượng hải quân, không quân của Việt Nam không thể xem là quá mạnh cũng không thể xem là quá yếu, chúng phù hợp với việc luyện tập quân đội của ta.

9. Việc thiết lập hợp tác quân đội với Đài Loan có thể còn nhiều khó khăn, sự bất đồng giữa hai bờ Đài Loan – Hải Nam có thể tồn tại, nhưng việc thu hồi Nam Sa thì hai bên lại có chung một lập trường. Mặc dù không thể mời quân đội Đài Loan cùng tham chiến, nhưng trước và sau trận chiến đều cùng nhau tiến hành các hoạt động như : cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị bảo trì, nhân viên xử lý, máy bay, tàu chiến do nhu cầu cần thiết hạ cánh hoặc cập bến trong chiến tranh, chắc chắn rằng sự phối hợp hai quân đội sẽ góp phần vào đoàn kết, thống nhất quốc gia.

10. Việt Nam là bọn tham lam, kiêu ngạo, vô lễ, tuyệt đối không thể thông qua đàm phán để chiếm lại quần đảo Nam Sa, không chiến đấu thì không thể thu hồi lại biên cương quốc thổ. Như vậy, cuộc chiến Nam Sa là không thể tránh khỏi, đánh muộn không bằng đánh sớm, bị động ứng phó không bằng chủ động tấn công.

Vẫn còn rất nhiều lý do nhưng không tiện để nêu ra cụ thể từng lý do được.

Mặc dù nói chúng ta đánh Việt Nam như đánh bạc nhưng việc thu hồi Nam Sa quả thực không phải chuyện nhỏ. Hải quân và không quân Việt Nam cũng đang dần hiện đại hóa cho nên ta quyết không đánh giá thấp đối phương, bắt buộc phải làm tốt công tác chuẩn bị, không đánh thì thôi, đã đánh là phải thắng nhanh. Trong khi bàn việc lấy lại Nam Sa vấn đề không phải là xét xem có thể thành công hay không mà phải xét xem thắng lợi có triệt để hay không, những tổn thất, rủi ro có phải là nhỏ nhất hay không và kết quả cuối cùng có phải là tốt đẹp nhất không… Vì thế cần phải xác định 4 mục tiêu rõ ràng. Đó phải là, xuất một đường quyền đẹp mắt về chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao.

Trên lĩnh vực quân sự, đáng tiếc rằng Việt Nam đã làm những việc gây phản ứng mãnh liệt như xâm chiếm nhiều đảo mới, giam giữ ngư dân và tàu đánh cá Trung Quốc. Ta tuyên bố rằng lãnh thổ lãnh hải nước ta không dễ dàng xâm chiếm, bắt buộc Việt Nam trả lại những đảo đã xâm chiếm, nhanh chóng hoàn thành việc triển khai quân sự tại Nam Hải. 

Nếu quân đội Việt Nam không chịu thì Trung Quốc sẽ tiến hành tấn công xua đuổi, kẻ nào dám phản kháng ta kiên quyết diệt trừ, nếu tăng viện trợ máy bay tàu chiến cho Việt Nam thì sẽ bắn hạ, bắn chìm hết.

Quân đội Việt Nam đã trang bị một số lượng nhất định máy bay, tàu chiến và tên lửa tiên tiến do Nga sản xuất. Quân đội của ta sẽ huy động tiềm lực hải quân, không quân để phong tỏa những căn cứ hải quân, không quân của chúng. 

Quân đoàn pháo binh thứ hai cần làm tốt việc che giấu những cứ điểm chiến lược hiểm yếu, không quân và chiến hạm cần làm tốt công tác dự báo; cung cấp nhiên liệu cho kế hoạch tấn công lâu dài ở căn cứ phía Nam. Lực lượng trên mặt đất phải luôn luôn sẵn sàng ứng phó với các cuộc tấn công quấy nhiễu của quân đội Việt Nam ở khu vực biên giới bất kỳ lúc nào; phải thực hiện phá hủy các căn cứ hải quân không quân ở miền Bắc.

Tóm lại, ta sẽ lấy việc tấn công Việt Nam như là cuộc diễn tập để giải phóng Đài Loan, một khi tình hình đã lan rộng thì sẽ triệt để phá hủy lực lượng hải quân, không quân Việt Nam.

Trên lĩnh vực chính trị, vạch trần việc các nước như Việt Nam xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải nước ta, nhắc lại rằng nước ta muốn duy trì hòa bình, nhưng chúng ta không thể hòa bình với những kẻ xâm hại đất nước ta.  

Cho dù xảy ra rồi thì chúng ta không mong nhìn thấy xung đột quân sự. Trung Quốc hy vọng rằng các bên liên quan nên ngồi lại tiến hành đàm phán hòa bình để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

Nếu các nước như Việt Nam chịu khuất phục trước sức ép quân sự to lớn của nước ta thì nước ta sẽ không sử dụng biện pháp vũ lực nữa, sẽ mở rộng tiếng nói quốc tế của nước ta.

Trên lĩnh vực ngoại giao, một khi chiến sự xảy ra, cộng đồng thế giới chắc chắn sẽ đưa ra bốn chữ “phê phán, phản đối”.

Chúng ta cần nhanh chóng tranh thủ sự thông cảm của Mỹ, Nga, Liên minh Châu Âu, nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động ngoại giao là nắm được mục tiêu của các nước ASEAN, cố gắng bình tĩnh trước sự phẫn nộ và hoảng hốt của họ, khiến họ tin tưởng rằng Trung Quốc vô cùng coi trọng quan hệ với ASEAN, tuyệt đối không làm tổn hại đến lợi ích của các quốc gia ASEAN ngoại trừ Việt Nam, Trung Quốc sẽ làm cho mức độ phản ứng của họ giảm xuống mức tối thiểu.

Trên lĩnh vực kinh tế, để chung sống hòa bình cần thực hiên chiến lược “Dùng đất đai đổi lấy hòa bình”. Để hòa bình phát triển thì cần thực hiện chiến lược “Dùng tiền bạc đổi lấy đất đai”. 

Đối với quần đảo Nam Sa thì lại phải thực hiện phương châm “chủ quyền thuộc về tôi, cùng nhau phát triển, thỏa hiệp hòa bình, chia sẻ lợi ích” thiết lập một số khu vực cùng phát triển ở giáp giới các nước ASEAN gần quần đảo Nam Sa. Lấy nước ta làm chủ, lần lượt cùng hợp tác phát triển với Philipines, Malaysia, Bruney… giúp các đối tác cùng có lợi. Mục đích của các nước này muốn chiếm đảo là vì muốn đạt được lợi nhuận dầu mỏ, giúp cho họ kiếm được tiền mà họ muốn, làm cho nó dễ dàng đồng ý chủ quyền Trung Quốc. 

Nếu Việt Nam đồng ý với chính sách này thì có thể cũng nhận được một phần nào đó.

Với ý đồ lấy phương thức hòa bình để giải quyết tranh chấp Nam Sa thì kết quả cuối cùng Nam Sa quần đảo ắt bị chia cắt.

Tất cả những đảo bị chiếm giữ là do ban đầu lực lượng quân đội của nước ta không đủ, khi có đủ năng lực thì không cần phải do dự mà không quyết định, việc sử dụng vũ lực chắc chắn sẽ dẫn đến có sự phản đối.

Cùng năm đó, Anh ra sức tranh đoạt đảo Falklands cũng đã bị lên án chỉ trích nhiều, nhưng khi đảo Falklands đã nằm trong tay nước Anh, ai đã có thể làm gì họ.

Nếu Việt Nam nguyện làm đầu tiên thì phải đánh cho chúng không kịp trở tay .Hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa.


Gs. Vũ Cao Đàm dịch theo nguyên bản tiếng Tàu trên điện báo “Trung quốc Binh khí Đại toàn”
   
(Blog Huỳnh Ngọc Chênh)

Sâu Ciu Blog