vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:

Chuyen thu ky cua Mao Trach Dong bi am sat
                                                         Mao Trạch Đông (Ảnh tư liệu)

Ngày 23/5, Điền Gia Anh, thư ký tài hoa của Mao Trạch Đông, một thời chết ngay tại nhà mình trong Trung Nam Hải khi mới ngoài 40 tuổi.

Theo tài liệu chính thống, Điền Gia Anh vì oan khuất mà tự sát. Thế nhưng, nhiều tư liệu mới đây lại cho rằng, thư ký họ Điền thực chất bị ám sát mà chết. Chân tướng sự thật cho tới nay vẫn còn là điều gây tranh cãi.

1. Ngày 16/5/1966, “Thông báo 16/5”, được Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua, mở đầu cho cuộc Cách mạng Văn hóa tàn khốc trong lịch sử Trung Quốc. Ngày 22/5, trước cửa nhà Điền Gia Anh thư ký thường ngày của Mao Trạch Đông đột nhiên xuất hiện một chiếc xe sang trọng. Từ trên xe bước xuống là 3 người: An Tử Văn, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Vượng Lực, Phó trưởng ban Liên lạc và đối ngoại Trung ương và người thứ 3 là Thích Bản Vũ, một nhân vật đang nổi lúc bấy giờ.

An Tử Văn nói với Điền Gia Anh: “Chúng tôi đại diện cho tổ 3 người của trung ương, hôm nay tuyên bố: Thứ nhất, trung ương cho rằng mối quan hệ giữa anh và Dương Thượng Côn không bình thường (khi đó, Dương Thượng Côn đang là Chủ nhiệm văn phòng trương ương Đảng, Điền Gia Anh là Phó chủ nhiệm, quan hệ công việc khá mật thiết). Dương Thượng Côn nay là thanh phần phản đảng, phản xã hội chủ nghĩa. Do đó, anh nên kiểm điểm lại. Thứ 2, trung ương cho rằng, anh có xu hướng hữu khuynh. Do đó, hôm nay chúng tôi thay mặt trung ương tuyên bố: Đình chỉ chức vụ của anh để phản tỉnh. Anh phải đem toàn bộ tài liệu đang lưu giữ giao lại. Thích Bản Vũ sẽ thay anh đảm nhiệm công việc ở phòng bí thư. Anh cũng buộc phải chuyển ra khỏi Trung Nam Hải”.

Sáng sớm ngày 23/5, Đổng Biên, vợ của Điền Gia Anh tới phòng ngủ của Điền Gia Anh thì phát hiện Điền đang gục trên giường, có vẻ như cả đêm không ngủ. Đổng Biên an ủi Điền mấy câu rồi đi làm. Chiều hôm đó, vào lúc 3 giờ, Đổng Biên đang chuẩn bị về nhà thì nhận được điện thoại của An Tử Văn nói cô phải lập tức đến phòng tiếp khách phía tây Trung Nam Hải. “Phòng tiếp khách phía tây là nơi Lưu Thiếu Kỳ tiếp đãi khách, vì sao lại muốn mình tới đó?” Đổng Biên đoán rằng, việc này hẳn có liên quan tới chồng mình nên trong lòng thấp thỏm.

Tới phòng tiếp khách phía tây, Đổng Biên chỉ thấy An Tử Văn, Uông Đông Hưng đang ngồi bên trong. An Tử Văn tuyên bố: Điền Gia Anh đã sợ tội tự sát. Tin sét đánh này khiến Đổng Biên bị sốc, ngồi thụp xuống đất. Không đợi Đổng Biên bình tĩnh lại, An Tử Văn và Uông Đông Hưng nói họ muốn cô đi xem thi thể chồng đồng thời chất vấn: “Trước khi chết Điền Gia Anh có nói gì không?” “Cô có muốn đi bệnh viện kiểm tra thi thể không?” Đổng Biên lúc đó đầu óc trống rỗng, không nghĩ được gì nữa, chỉ đáp một cách máy móc: “Tất cả do tổ chức quyết định. Tôi sẽ phục tùng tổ chức”.

Tại phòng phía tây, nơi thường ngày vẫn để sách của Mao Trạch Đông, thi thể Điền Gia Anh được phủ bằng một tấm chăn màu lam cũ kỹ. Có người kéo khuỷu tay Đổng Biên để cô tiến lên phía trước để nhìn cho thật rõ, xác nhận rằng Điền Gia Anh đã tự sát. Uông Đông Hưng sau đó báo cáo với Mao Trạch Đông để xin ý kiến, Mao nói: “Người chết rồi cũng cần tôi quản hay sao? Anh ta đã tự chọn đoạn tuyệt với con đường của nhân dân”. Uông Đông Hưng sau đó lại xin ý kiến chỉ đạo của Chu Ân Lai, Chu nói: “Có phải là tự sát không? cần đưa đi bệnh viện kiểm tra, đây là thủ tục của pháp luật”. Sau đó, Chu lại nói: “Làm theo chỉ thị của Mao Chủ tịch” Ngay trong chiều hôm đó, thi thể của Điền Gia Anh được đổi tên, do bộ công an ra mặt đưa đi hỏa táng.

2. Mặc dù những tài liệu chính thống đều nói rằng, Điền Gia tự sát, song một số người vẫn tin rằng, họ Điền thực chất là bị giết. Mới đây, truyền thông Trung Quốc lan truyền một bản báo cáo mà Uông Đông Hưng gửi lên văn phòng trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 4/4/1980 về cái chết của Điền Gia Anh có kể lại sự việc như sau:

Theo chỉ thị của chủ tịch (Mao Trạch Đông) muốn tôi đến nhà Điền Gia Anh để nói chuyện với Điền, khuyên Điền không nên đứng về phe tạo phản. Mười giờ sáng ngày 23/5, tôi và cảnh vệ tới Vĩnh Phúc Đường (nơi ở của Điền Gia Anh), truyền đạt sự quan tâm của chủ tịch và hỏi suy nghĩ của anh ta. Điền lạnh nhạt cười rồi nói: “Nếu 18 năm qua tư tưởng của tôi luôn luôn hữu khuynh, phản lại chủ nghĩa Mác, phản lại đề xướng của chủ tịch, cùng một ruộc với bọn Bành Đức Hoài, Bành Chân, Dương Thượng Côn thì vì sao chủ tịch lại để tôi ở bên cạnh?”

Tôi lại hỏi Điền có suy nghĩ nào khác không? Điền nói: “Không thể nói trái với sự thực. Bành Đức Hoài, Bành Chân, Dương Thượng Côn và một số người đã cùng chủ tịch nam chính bắc chiến, làm sao có chuyện họ phản đảng, phản Chủ nghĩa Mác? Hãy để lịch sử làm chứng”. Tôi lại nói: Anh không nên cố chấp, nếu không anh sẽ còn thảm hơn Bành Đức Hoài, Bành Chân, Dương Thượng Côn nữa! Điền Gia Anh lập tức đáp: “Xin hãy báo cáo với chủ tịch, Điền Gia Anh tôi rất hiểu chủ tịch. Chủ tịch cũng sẽ hiểu Điền Gia Anh tôi. Tôi sẽ nhận kết cục còn thảm hơn”. Nói rồi, Điền Gia Anh cầm chiếc cốc ném mạnh xuống đất, biểu thị đoạn tuyệt với chủ tịch. Lúc đó, không khí rất căng thẳng, cảnh vệ mất bình tĩnh, bắn vào Điền Gia Anh. Khi tôi sai cảnh vệ tiến lên phía trước xem thì Điền Gia Anh đã chết nên về báo cáo chủ tịch, thủ tướng.

Khi đó, chủ tịch nghe báo cáo xong, nói: “Người đã chết rồi không thể sống lại. Anh ta ở bên cạnh tôi 18 năm. Từ năm 1956 tới nay, trải qua rất nhiều biến cố trọng đại, lần nào anh ta đều có chủ kiến riêng. Vì thế, ta mới để anh ta làm thư ký riêng. Sau đó, anh ta lại về cùng một phe với bọn Bành Đức Hoài, Dương Thượng Côn. Anh ta tôn trọng một chủ tịch khác, anh ta cũng có dã tâm”.

Một tài liệu khác nói rằng, Hoa Quốc Phong vào năm 1987 từng hai lần chất vấn Uông Đông Hưng về sự kiện của Điền Gia Anh. Uông Đông Hưng đã trả lời: Khi đó Điền Gia Anh rút súng từ trong người ra, tôi đã chỉ đạo cảnh vệ hạ thủ. Nếu không làm vậy tôi đã chết tư lâu mà hôm nay ông có lẽ cũng không thể ngồi lên chiếc ghế chủ tịch. Mao chủ tịch biết toàn bộ quá trình này, nói: Anh ta đã tự chọn con đường của mình, hãy để anh ta đi. Hoa Quốc Phong còn nói Uông Đông Hưng từng nói với mình rằng, Điền Gia Anh biết quá nhiều, điều này rất nguy hiểm, Mao Chủ tịch luôn cảm thấy lo lắng...

Chân tướng cái chết của Điền Gia Anh cho tới nay vẫn còn là một tranh cãi. Điền Gia Anh tự sát hay bị giết, có lẽ chỉ những người trong cuộc mới có thể trả lời một cách chính xác nhất, song có một điều chắc chắn rằng, Điền Gia Anh đã chết trong sự oan khuất. Vì thế, vào năm 1980, chính quyền Trung Quốc quyết định sửa sai cho Điền Gia Anh. Lễ truy điệu chính thức của Điền Gia Anh cũng được tổ chức một cách long trọng.

 Hà Phương 

(Hôn nhân và Pháp luật)

Một người bạn thân của tôi nói rằng hiện nay tư liệu về Hồ Chí Minh rất nhiều nên việc giải thiêng không còn cần thiết nữa. Theo tôi, người bạn này sống chủ yếu ở Mỹ nên mới nói như vậy. Bởi vì, một người bạn khác, là giảng viên đại học ở Việt Nam, cho biết rằng sinh viên đang hào hứng tham gia cuộc thi tìm hiểu chủ nghĩa Mác-Lê nin. Dĩ nhiên là tìm hiểu theo định hướng của đảng. Đồng thời, cá nhân tôi, khi tìm thông tin trên mạng thì thấy phong trào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện đang được thực hiện một cách rầm rộ ở các trường đại học khắp cả nước, từ Bắc chí Nam.

Tư liệu về Hồ Chí Minh nhiều, nhưng ở Việt Nam,  sách lịch sử chính thống và báo chí chính thống chỉ cho phép công bố và truyền bá những tư liệu được phép của Ban Tuyên giáo. Hãy hình dung rằng cả thế giới biết việc Marx có con riêng, nhưng báo chính thống Việt Nam không thể đăng thông tin đó. Marx hay Hồ Chí Minh đều bị kiểm duyệt, nếu các thông tin làm ảnh hưởng tới cái gọi là « tư tưởng Marx-Lê nin » và « tư tưởng Hồ Chí Minh » mà đảng đã và đang tuyên truyền. Môn lịch sử, cũng như mọi môn khoa học xã hội khác, được dùng làm công cụ tuyên truyền trong các chế độ toàn trị cộng sản. Thậm chí, cách vận hành của hệ thống toàn trị khiến cho bản thân lịch sử cũng biến mất. Đến mức Václav Havel nói rằng trong chế độ toàn trị « không có lịch sử ».

Sẽ rất nhầm lẫn nếu cho rằng người dân Việt Nam hiện nay đã hiểu rõ chế độ của mình. Đáng tiếc, sự thật là, chỉ có một số rất ít người nhìn thấy bản chất của chế độ.

Đấy là lý do khiến những người đấu tranh cho dân chủ ở trong nước nghĩ rằng cần phải đi con đường khai minh, thông qua giáo dục. Tuy nhiên, bế tắc là ở chỗ, một khi trường học bị biến thành công cụ tuyên truyền của chính quyền, với sự hỗ trợ các tổ chức đảng, của bộ máy an ninh mật, an ninh văn hóa và cảnh sát, thì việc khai minh qua con đường giáo dục trên thực tế sẽ bị cản trở, thậm chí không thể tiến hành được. Hoặc nếu thực hiện được thì cũng chỉ nửa vời, bởi bản thân sự hợp tác, trong xã hội toàn trị, đã bao hàm trong nó sự thỏa hiệp. Nan đề là ở chỗ : sự thỏa hiệp không cho phép thực hiện được mục đích giáo dục khai minh và giáo dục tự do. Liệu có thể giải quyết được nan đề, vừa thỏa hiệp với quyền lực toàn trị vừa thực hiện được một nền giáo dục đích thực ?

Một trong những con đường có thể có hiệu quả hiện nay là truyền thông tự do trên mạng  (trong đối lập với truyền thông tuyên truyền chính thống). Đại lộ thông tin internet là không gian mà những người muốn tiến hành các chương trình khai minh, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí cần sử dụng. Ngoài ra, mọi con đường đều dẫn tới thành Rome. Câu hỏi có lẽ là: bao giờ những người hiện đang đi trên những con đường khác nhau có thể kết nối lại với nhau?

Những người muốn xây dựng Việt Nam thành một quốc gia độc lập, phát triển về kinh tế, khoa học, văn hóa, muốn xây dựng một xã hội dân chủ tại Việt Nam, cần đối diện với khó khăn to lớn này : việc bưng bít thông tin, truyền thông tuyên truyền một chiều, chính sách ngu dân… được thực hiện nhiều thập kỷ nay đã mang lại hậu quả ghê gớm đối với các thế hệ người Việt. Hậu quả đó chính là những bộ não bị đúc khuôn, bị tẩy trắng, mất khả năng tư duy, sẵn sàng tin vào những gì được tuyên truyền mà không hề hoài nghi, không hề đặt câu hỏi. Và mặt khác của vấn đề là ở chỗ những bộ óc như vậy lại tin rằng mình nắm giữ chân lý, rằng những ai khác mình đều là lạc hậu, phản động…

Trong bối cảnh đó, xin giới thiệu lại cùng quý độc giả hai bức thư của Hồ Chí Minh gửi Stalin vào tháng 10  năm 1952 về vấn đề cải cách ruộng đất. Nội dung của chúng  xác nhận rằng Hồ Chí Minh là người thiết kế chương trình cải cách ruộng đất tại Việt Nam, dưới áp lực của Liên Xô và Trung Quốc.  Hai bức thư này đã được một số người dịch và phân tích trên một số website và blog. Ở đây tôi sử dụng bản dịch tiếng Pháp, được giới thiệu trong công trình khảo cứu lịch sử « Le communisme vietnamien (1919-1991) » của nhà nghiên cứu Céline Marangé, in năm 2012, tại Paris. Đồng thời tôi cũng dịch một đoạn phân tích  của Tiến sĩ Khoa học chính trị Céline Marangé về bối cảnh  lịch sử của hai bức thư này, và một đoạn ngắn khác bình luận về tính chất phức tạp của các nhân vật lịch sử và các sự kiện lịch sử Việt Nam. (Nguyễn Thị Từ Huy)

 I. Phân tích của Céline Marangé về bối cảnh lịch sử của hai bức thư:

Đầu những năm 1950, điện Kremlin vẫn còn rất thận trọng đối với cuộc chiến tranh Đông Dương và nhân vật Hồ Chí Minh. Kremlin chỉ ủng hộ đề nghị gia nhập Liên Hợp Quốc do Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đệ trình ngày 29/12/1959, khi mà 9 tháng sau, Pháp cũng đưa ra một đề nghị tương tự cho « Nước Việt Nam của Bảo Đại » và cho các vương quốc Lào và Campuchia. Tương tự như vậy, khi mà tất cả các đại diện của các đảng cộng sản nước ngoài đã được mời đến dự đại hội lần thứ XIX của đảng cộng sản Liên Xô buộc phải viết thư cho Stalin để được mời tham dự. Ngày 30 tháng 9 năm 1952, Hồ Chí Minh gửi cho Stalin một bức điện tín từ Bắc Kinh để xin ông ta cho phép được bí mật tới Moscou. Ngày 2 tháng 10 Stalin cho phép Hồ Chí Minh tới tham dự với hình thức « không chính thức ». Trong thư trả lời Stalin, gửi ngày 17 tháng 10, Hồ Chí Minh đề nghị Stalin cho Liu Shao-qi tham dự vào những thảo luận về Việt Nam. Ba người đó gặp nhau tại Moscou ngày 28 tháng 10 năm 1952. Trước cuộc họp, Liu Shao-qi đã đề nghị Stalin phải nài Hồ Chí Minh để ông ta tiến hành cải cách ruộng đất tại Việt Nam. Hồ Chí Minh lúc đó muốn dừng lại ở việc giảm tiền lĩnh canh. Nhưng khi Stalin yêu cầu ông ta thực hiện một cuộc cải cách ruộng đất theo mô hình cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã chịu thuận theo ý muốn của Stalin. Hai ngày sau, ông viết cho Stalin đề nghị gửi tới Việt Nam hai cố vấn Xô Viết, ưu tiên người nói tiếng Pháp, và đề nghị nhận các sinh viên Việt Nam đến đào tạo tại Moscou, và đặc biệt là cung cấp các vũ khí hiện đại. Hôm sau, ngày 31 tháng 10, Hồ Chí Minh chuẩn y một chương trình cải cách ruộng đất, đã được hiệu chỉnh với sự hỗ trợ của Liu Shao-qi và Wang Jiaxiang, đại sứ đầu tiên của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô (1949-1951). Trước khi rời khỏi Moscou, Hồ Chí Minh viết một lá thư cảm ơn Stalin, trong đó một lần nữa ông hứa với Stalin sẽ dành tâm lực vào cuộc cải cách ruộng đất. Những bức thư này mang lại cảm giác rằng Hồ Chí Minh đã chấp nhận tiến hành cải cách ruộng đất để có được vũ khí với số lượng lớn và để tạ lỗi với Stalin, cho đến lúc đó vẫn tiếp tục dè chừng Hồ Chí Minh. Tháng 12, Stalin tuyên bố với Liu Shao-qi và đại sứ Trung Quốc rằng ông ta « về phần mình, đánh giá  Hồ Chí Minh là một người tốt, dù ban đầu thì không tốt ». Khi trở về Việt Nam, Hồ Chí Minh đề nghị Mao Trạch Đông cung cấp các chuyên gia về cải cách ruộng đất và cung cấp các ý tưởng. Ban bí thư trung ương của đảng cộng sản Trung Quốc gửi sang Wang Li, người đảm nhiệm chức vụ « cố vấn tinh thần và ý thức hệ », đồng thời, về sau, đó là một trong những người chỉ huy Cách mạng văn hóa Trung Quốc, trước khi bị bắt vì tội « khuynh tả cực đoan », vào năm 1967. Để đến phụ giúp cho Việt Nam, Wang Li có thêm Qiao Xiaoguang, một chuyên gia về cải cách ruộng đất, người đã lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc vùng Quảng Tây. Ngày 2 tháng 3 năm 1953, tức là ba ngày trước khi Stalin chết, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua một nghị định về việc phân loại bộ phận dân cư ở nông thôn, nghị định này được dùng làm cơ sở pháp lý cho cải cách ruộng đất và cho « tòa án giai cấp ».

(Trích từ cuốn « Le communiste vietnamien (1919-1991) », Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, tr. 193-195)

II. Hai bức thư của Hồ Chí Minh gửi Stalin

Thư thứ nhất
Đồng chí I.V. Stalin thân  mến

Tôi đã bắt đầu soạn thảo dự án chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, và sẽ nhanh chóng trình bày với  đồng chíi.

Tôi gửi tới  đồng chí cùng một số yêu cầu sau đây, và hy vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.

1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng tại chỗ. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp, họ có thể thể giao tiếp với một tầng lớp rộng rãi. Mất khoảng mười ngày để đi từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi.

2. Chúng tôi muốn gửi 50-100 học sinh sang Liên Xô học tập, họ, đã có trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, một vài ngườ trong số họ là đảng viên và những người khác chưa phải là đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí có nhất trí về vấn đề này không?

3. Chúng tôi muốn nhận từ các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh (thuốc chống sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa là cứ nửa năm nhận 5 tấn. 

4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau đây :

a) Pháo binh phòng không  37 li cho 4 trung đoàn, tổng số là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.

b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tổng số là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu.

c) Súng máy phòng không 12,7 li cho hai trung đoàn, tổng số là 200 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu. 

Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định sẽ rời khỏi Moscou vào ngày 8 hoặc ngày 9 tháng 11 [1952].

Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và những lời chúc tốt đẹp nhất !

Hồ Chí Minh

30-10-1952

          2. Thư thứ hai

Đồng chí I.V. Stalin thân  mến

Tôi gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Dự án chương trình do tôi soạn thảo, với sự hỗ trợ của đồng chí Liu Shao-qi và [đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô từ 1949-1951 Wang Jiaxang].

Mong đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này.

Gửi đồng chí lời chào cộng sản.

Hồ Chí Minh

31/10/1952

(Phụ lục 4, Le communiste vietnamien (1919-1991) ), Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, tr. 534-535)

 III. Bình luận của Céline Marangé về tính phức tạp của các nhân vật lịch sử và các vấn đề lịch sử của Việt Nam:

Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam vẫn còn là một chủ đề nhạy cảm và tương đối ít được khai thác. Kỷ niệm về cuộc chiến tranh Việt Nam, được khơi dậy bởi sự can thiệp của Mỹ tại Irak năm 2003, và đặc biệt là cái kỷ niệm, được người ta thi nhau lý tưởng hóa, về phong trào sinh viên phản đối chiến tranh, cuộc chiến được nhìn nhận như là « chiến tranh vệ quốc chống đế quốc Mỹ », ở Pháp,  kỷ niệm ấy vẫn luôn đảm bảo cho những cảm tình nhất định đối với chế độ cộng sản Việt Nam. Ở phía ngược lại, trong một bộ phận khác của dân chúng Pháp, ký ức về cuộc chiến tranh Đông Dương, thậm chí hoài niệm về Đông Dương thuộc Pháp, vẫn còn chưa tắt hẳn. Ở Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam tiếp tục kích động những thiên kiến tồn tại rất lâu sau khi xe tăng Bắc Việt tiến vào Sài Gòn và sau khi chế độ Miền Nam Việt Nam thất thủ vào ngày 30/4/1975. Đối với những người Việt lưu vong căm thù chế độ cộng sản, Hồ Chí Minh bị cố tình biến thành quỷ dữ. Người ta gán cho ông tính cách gian xảo, quỷ quyệt, hay thậm chí cả tính cách  bá quyền mà chắc hẳn ông không bao giờ có. Tương tự như thế, mặc dù tướng Giáp giành được sự khâm phục ở những vị tướng vốn là kẻ thù của ông, nhưng ông thường xuyên bị miêu tả như một kẻ tính toán lạnh lùng, thờ ơ với số phận của lính tráng, và bị xem như một lãnh đạo có quyền lực tuyệt đối. Tai tiếng của hai người này lớn đến mức che lấp hết những nhân tố hàng đầu khác ở họ. Thế nhưng, trong thực tế, không có gì đơn giản. Không ai đơn giản hết. Cả Hồ Chí Minh, cả tướng Giáp đều không đơn giản, và có thể còn phức tạp hơn đối với những lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô đã cố bẻ cong các sự kiện ở Việt Nam. Từ những năm 1960 trở đi, quyền lực phần lớn đã không còn nằm trong tay họ. Những người khác đã nắm giữ quyền lực.

(Trích từ cuốn « Le communiste vietnamien (1919-1991) », Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, tr. 29)

Nguyễn Thị Từ Huy

(Blog RFA)


KOG_117561_00002_1_t222_112926
Khrushchev là người kế nhiệm Joseph Stalin lãnh đạo Liên bang Xô Viết từ năm 1955 tới 1964. Nhiệm kỳ của ông trải qua cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.

Nikita Sergeyevich Khrushchev sinh năm 1894 trong một gia đình nghèo khó ở miền tây nam nước Nga. Ông gần như không được đi học. Ông gia nhập Đảng Bolshevik năm 1918 và chiến đấu trong Hồng Quân trong cuộc Nội chiến Nga.

Năm 1929, Khrushchev chuyển đến Moskva để tham gia Học viện Công nghiệp Stalin. Năm 1931, ông bắt đầu làm việc cho Đảng Cộng sản, dần thăng tiến qua các cấp bậc để trở thành bí thư thứ nhất của Đảng bộ thành phố Moskva năm 1938. Năm sau đó ông trở thành ủy viên Bộ chính trị – cơ quan ra quyết định tối cao của Đảng Cộng sản. Trong Thế chiến thứ hai, Khrushchev đảm nhiệm chức vụ chính ủy của quân đội.

Tháng 3/1953, Stalin qua đời. Không lâu sau đó Khrushchev trở thành tổng bí thư đảng, tuy nhiên ông cũng phải mất vài năm để củng cố địa vị của mình. Tháng 2/1956, ông trình bày một bài diễn văn bí mật tại Đại hội Đảng lần thứ 20 nhằm lên án Stalin. Sự việc này khiến Đảng Cộng sản và cả phương Tây dậy sóng, mặc dù Khrushchev không nhắc đến vai trò của mình trong chiến dịch khủng bố của Stalin.

Bài diễn văn này đã làm dấy lên phong trào ‘phi Stalin-hóa’ (de-Stalinisation, tức bài trừ sự sùng bái cá nhân Stalin – ND). Khrushchev cũng nỗ lực cải thiện đời sống người dân Liên Xô và nới lỏng tự do trong đời sống văn hóa và trí thức. Giữa thập niên 1950, ông phát động phong trào ‘Virgin Lands’ (nghĩa đen là “những vùng đất trinh nữ” – NBT) nhằm khuyến khích trồng trọt ở những vùng đất chưa được khai hoang tại nước Cộng hòa Kazakh (tức Kazakhstan). Ông cho đầu tư vào chương trình không gian vũ trụ của Liên Xô và thành quả là vệ tinh Sputnik I được phóng năm 1957. Đây cũng là thiết bị không gian đầu tiên bay theo quỹ đạo trái đất.

Trong quan hệ với phương Tây, nhiệm kỳ của Khruschev trải qua một loạt khủng hoảng – máy bay gián điệp U2 của Mỹ bị bắn rơi trên lãnh thổ Liên Xô năm 1960, Bức tường Berlin được xây dựng năm 1961, và nghiêm trọng nhất là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 đã đưa thế giới đến bờ vực của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Bất chấp những vụ việc này, Khrushchev vẫn cố gắng theo đuổi chính sách cùng chung sống hòa bình với phương Tây. Sự thay đổi trong ý thức hệ này, cùng với việc Khrushchev chối bỏ chủ nghĩa Stalin, đã dẫn tới sự rạn nứt trong quan hệ với Trung Quốc Cộng sản vào năm 1960.

Điều đáng nói là Khrushchev đã không sẵn sàng nới lỏng sự kiểm soát của Liên Xô với các quốc gia vệ tinh ở Đông Âu. Năm 1956, một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của chủ nghĩa cộng sản tại Hungary đã bị đàn áp đẫm máu.

Cho đến năm 1964, Khrushchev đã cô lập khá nhiều người giữ chức vụ cao ở Liên Xô và bị các đối thủ do Leonid Brezhnev đứng đầu buộc phải từ chức. Khrushchev qua đời ngày 11 tháng 9 năm 1971 tại Moskva.

Nguồn: Historic figures, BBC (truy cập ngày 29/5/2015)

Biên dịch & Hiệu đính: Phạm Hồng Anh        

(Nghiên Cứu Quốc Tế)

Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du trước 1975
                Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du trước 1975

Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi Việt Nam mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó không hề có.

Một dịp sát tết, tôi được đến siêu thị với anh trai, thấy nó giống một cửa hàng cực lớn, máy lạnh mát rượi và đầy những thứ lạ lẫm. Khách mua hàng toàn những người lớn ăn bận lịch sự, đàn ông với áo chemise bỏ vào quần, những người lính và nhiều phụ nữ bận áo dài. Do xe đẩy không có nhiều như bây giờ, khách mua hàng toát mồ hôi sắp hàng tính tiền, tay lủ khủ hàng hóa trong những cái túi lưới.

Siêu thị Nguyễn Du được thiết lập ở góc đường Nguyễn Du và Chu Mạnh Trinh, Sài Gòn (hai con đường này nay thuộc quận 1, tên đường không thay đổi cho đến nay) do Tổng cuộc Tiếp tế thành lập. Theo một số tài liệu, năm 1966, ông Trần Đỗ Cung, đứng đầu cơ quan trên được giao nhiệm vụ quân bình thị trường. Ngoài việc cấp bách như giải quyết những việc cần thiết cho đời sống người dân như nhập xe gắn máy, điều hòa việc phân phối thịt heo, gạo, ông dự tính thiết lập tại Việt Nam các trung tâm bán lẻ để phục vụ đại chúng, nhất là những người có đồng lương ổn định.

Đầu tháng 2/1967, một phái đoàn do ông Cung cử ra đã đến thăm chợ Mỹ (Commissary) ở đường Hùng Vương, Chợ Lớn để quan sát hoạt động cùng cách tổ chức của cơ sở này. Sau đó một tuần, ông Trần Đỗ Cung cùng một chuyên viên tài chính lên đường đi Phi Luật Tân theo lời mời của Tập đoàn siêu thị Makati ở thủ đô Manila để nghiên cứu về quản lý, kiểm soát, tổ chức và sản xuất thực phẩm. Họ còn tiếp tục đến Hồng Kông, Singapore để tìm hiểu các siêu thị. Sau đó, tổ chức đào tạo về cách vận hành siêu thị cho nhân viên và tổ chức một khu chợ tết vào tháng 1/1967, vừa để phục vụ việc mua sắm tết vừa tổ chức buôn bán theo hình thức mới để huấn luyện nhân viên của mình.

Theo hồi ký của ông Trần Đỗ Cung xuất bản tại Mỹ năm 2011, một kiến trúc sư người Đức tên Meier đã được thuê vẽ họa đồ xây cất siêu thị, phối hợp với Công ty NCR về trang bị, thiết bị bên trong. Ngày 16/10/1967, siêu thị đầu tiên ở Việt Nam chính thức ra đời, mở đầu một kỷ nguyên mới cho ngành bán lẻ. Từ cửa vào, khách đi tay không vô siêu thị bằng một cửa quay, tự lấy một giỏ xách hay xe đẩy và đi lựa chọn hàng đã ghi sẵn giá trên kệ. Chọn xong, họ tính tiền ở các quầy thu ngân có máy tính tự động. Siêu thị này có 6 quầy thu ngân ở cửa ra, trong đó có một “quầy hỏa tốc” dành cho những người mua ít hàng. Còn có một lối ra cho người không mua hàng. Cách thức không khác gì siêu thị ngày nay, nhưng khi nó được áp dụng cách nay gần 50 năm thì là một sự ngạc nhiên và kỳ thú đối với khách mua hàng Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả tả không khí lúc đó: “Siêu thị đã hoàn tất trên đường Nguyễn Du, có bãi đậu xe rộng rãi. Ngày khai trương cả đoàn xe Honda, Mobylette và Vespa rầm rập kéo đến chở vợ con hí hửng bước vào ngôi chợ tối tân mới mở cửa, phục dịch khách mua hàng một cách niềm nở và lịch sự”.

Sau khi khai trương hơn một tháng, siêu thị Nguyễn Du tổ chức một sự kiện đánh dấu sự thành công của mình. Khi người khách thứ 100.000 đến đây và đặt tay vào cửa quay, loa phóng thanh phát to: “Hoan nghênh công dân siêu thị thứ 100.000, là anh Lê Văn Sâm…”. Anh được choàng băng kỷ niệm và được ông quản đốc trao tặng giải thưởng trị giá 10.000 đồng.

Siêu thị Nguyễn Du nằm trên diện tích 30.000 m2, ở một khu phố còn vắng vẻ không phù hợp cho việc buôn bán lắm nhưng khi siêu thị được lập ra, số khách hàng lui tới được đánh giá là “ngoài mức tưởng tượng”. Trung bình mỗi ngày có khoảng 2.500 người đến mua sắm và doanh thu mỗi ngày tối đa là 1,5 triệu đồng thời đó.

Trước khi siêu thị được thành lập, trong giới doanh thương Sài Gòn, tuy rất nhanh nhạy với cái mới đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là việc làm “không tưởng”. Tuy nhiên, Tổng cuộc Tiếp tế với ý định sẽ thiết lập các chuỗi dây chuyền siêu thị tư nhân đã không chùn bước. Sau khi siêu thị này hình thành ít lâu, họ nhận được nhiều thư tán thưởng và nhiều tư nhân tấp nập gửi đơn đến đề nghị cộng tác thiết lập siêu thị tư nhân dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến tháng 12, đã có hai siêu thị tư nhân cỡ nhỏ là An Đông và Đoàn Thị Điểm mở ra. Cái thứ ba ở Biên Hòa được trang bị để mở vào Tết Mậu Thân năm 1968.

sieu 2582

Siêu thị này và những siêu thị nhỏ khác ở Sài Gòn và các vùng lân cận hoạt động đến 1975 thì chấm dứt. Sau đó là khoảng thời gian vắng bóng siêu thị cho đến gần 20 năm sau mới xuất hiện trở lại (khoảng 1993). Đến nay nhiều người vẫn cho rằng, siêu thị ở Việt Nam bắt đầu quá muộn mà không biết nó đã hình thành từ gần nửa thế kỷ nay và đã được tổ chức hoạt động rất tốt không khác gì các siêu thị bây giờ.

Phạm Công Luận
(Chuyện đời của phố)

(Thời Báo)

Trong bối cảnh quan hệ Việt – Trung có nhiều nổi cộm hiện nay, nhà văn Hoàng Quốc Hải, tác giả hai bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ Bão táp triều Trần và Tám triều Vua Lý có cuộc trò truyện với phóng viên Báo Người cao tuổi...

PV: - Là một người viết tiểu thuyết lịch sử, lại từng chạm vào những vỉa trầm tích nhạy cảm nhất trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, nhà văn nhận định thế nào về mối quan hệ này?

Nhà văn Hoàng Quốc Hải.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: - Trung Quốc là nước lớn, nước ta là nước nhỏ nhưng trong lịch sử, chưa bao giờ họ thôn tính được Việt Nam một cách dễ dàng. Cũng hoàn toàn không có chuyện nước ta phải cắt đất để cầu hoà với Trung Quốc. Nói về cái họa của đất nước, thì từ ngàn xưa hầu hết đều từ phương Bắc đưa tới. Đó không chỉ là câu nói cửa miệng, mà còn là di ngôn, di chúc, thậm chí cả di chiếu của tiền nhân để lại. Ngay trong thời kì nước ta hữu hảo với Trung Quốc, “núi liền núi, sông liền sông” cùng nhau gắn bó như “môi với răng”. Ấy vậy mà đã có lúc (tháng 2 năm 1979) “răng” đã cắn vào “môi”.

PV: - Cái cách để họ thực hiện sự bành trướng ấy với láng giềng?

Nhà văn Hoàng Quốc Hải: - Họ đã làm theo kiểu “tằm ăn dâu”. Trên đất liền, nhất là ở những vùng biên giới núi rừng hẻo lánh, họ âm thầm đưa người sang khai phá đất đai trồng trọt; nếu phía ta không phát hiện ra thì họ dựng nhà cửa làm nơi cư trú. Tiếp đến có người chết họ lập nghĩa trang mai táng. Đến lúc ta phát hiện ra, thì họ bảo là đã cư trú ở đây từ lâu đời. Cái vòng xâm lấn đất đai của họ thường trải qua ba giai đoạn: xâm canh, xâm cư, xâm táng. Có thể nói đây là một quốc sách chiến lược của họ từ xưa tới nay.

Còn trên biển, thì từ những năm 1956-1957 của thế kỉ trước, để phục vụ âm mưu đánh chiếm Hoàng Sa, họ cho người mang những cổ vật, tiền đồng có từ thời nhà Hán, nhà Đường… đem chôn trên quần đảo này. Để rồi đến đầu thập niên 80, họ làm một cuộc “khai quật khảo cổ”, rồi trưng bày hiện vật, thậm chí in lên các hoạ báo rồi tuồn vào nước ta “lu loa” rằng Hoàng Sa từ cổ xưa đã thuộc về họ, nhằm biện bạch cho hành vi đã đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Với Trường Sa thì năm 1988, họ đánh chiếm nhiều hòn đảo… Gần đây, họ gây hấn trên nhiều vùng biển, đảo nước ta nhằm biến vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp để thực hiện chiến lược bành trướng “ngoạm dần” từng miếng.

PV: - Thực tế họ đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân và dân ta…?

Nhà văn Hoàng Quốc Hải: - Năm 1285, Nhà Nguyên (vào thời điểm này nước Trung Hoa nằm dưới sự thống trị của đế quốc Mông Cổ, do hoàng đế Hốt Tất Liệt trị vì. Sau này nhà nước Trung Hoa thừa nhận Nhà Nguyên cũng như Nhà Thanh là những triều đại chính thống của họ) cử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang đánh chiếm nước ta. Chúng tưởng sẽ nuốt sống nước ta nhưng cuối cùng đã phải đại bại. Thoát Hoan suýt bị bắt sống. Năm 1288 chúng đem quân sang đánh chiếm nước ta một lần nữa. Trận này chúng lại thua đau. Chỉ một số trong cánh quân rút theo đường bộ mới có thể thoát thân, còn 10 vạn quân rút theo đường thủy với hơn 600 chiến thuyền thì đều bị tiêu diệt và bắt sống.

Ta đánh thắng như vậy nhưng để giữ hoà khí, Vua Trần Nhân Tông vẫn dâng Biểu “Cáo lỗi” lên Hốt Tất Liệt. Tờ Biểu viết: Việc “biên hấn” vừa qua thần rất lấy làm tiếc vì quân “Thiên triều” sang tàn sát lương dân của thần, cướp của, giết người, đốt nhà khiến dân chúng uất ức không chịu được nên chống lại, có gây thiệt hại đến sinh mạng của binh lính “Thiên triều”… Hốt Tất Liệt đã xuống Biểu “quở” như sau: Việc “biên hấn” nếu xảy ra tại sao không tâu về Thiên triều để ta kịp xử lí mà Khanh lại để cho quan quân của Khanh ra tay như vậy? Từ nay, nếu việc đó xảy ra Khanh phải tâu báo ngay cho Trẫm biết.

Lời lẽ của ta khiêm nhường như thế vì cha ông ta chủ trương cương kết hợp với nhu. Nhu nhưng không nhược.

PV: - Phải chăng bài học đó còn giá trị đến bây giờ, thưa nhà văn?

Nhà văn Hoàng Quốc Hải: - Đó là cách hành xử khôn ngoan. Phụ thuộc về mặt chính trị - không bao giờ! Nhân nhượng về đất đai - không bao giờ! Nếu ta càng nhân nhượng, họ càng lấn tới. Từ lấn biển sẽ đến lúc chúng biến nước ta thành bãi rác, biến dân ta thành tôi tớ.

PV: -Vì sao từ trước đến nay ta không sợ Trung Quốc mặc dù đó là một nước lớn?

Nhà văn Hoàng Quốc Hải: -Trong các thời nhà Trần, nhà Lý, sở dĩ chúng ta đánh thắng được các cuộc “biên hấn” là vì khi đó Triều đình là của nhân dân, trên - dưới đồng lòng. Trái lại cũng có thời kì chúng ta mất nước, ví dụ như thời nhà Hồ (Hồ Quý Ly). Mặc dù thời kì này có Hồ Nguyên Trừng là một chuyên gia chế tạo vũ khí vào hàng kiệt xuất không chỉ đối với Việt Nam, ta có nhiều binh khí mạnh hơn hẳn nhà Minh. Nhưng khi họ đem 20 vạn quân sang đánh chiếm nước ta thì chỉ trong vòng 10 ngày ba cha con Hồ Quý Ly đã bị giặc bắt. Là vì sau khi tiếm quyền nhà Trần, giành được ngôi báu, Nhà Hồ đã quay lưng lại với muôn dân, sưu cao thuế nặng, phu phen tạp dịch, nhân dân đói khát khốn cùng, vẫn phải nai lưng xây cất cung điện và thành quách cho nhà Hồ. Của cải trong dân chúng đều tập trung hết trong kho đụn nhà nước. Mặc cho dân chúng rên xiết… làm muôn nhà oán giận. Vì thế khi có giặc, đất nước lâm nguy, dân đã quay lưng lại với Nhà Hồ - Tình thế ấy, nước không còn là của dân nữa, dẫn đến mất nước. Chỉ khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, muôn dân hướng về làm nên cuộc kháng chiến trường kì gian khổ đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi.

Thiết tưởng giữa hai triều đại Nhà Hồ và Nhà Lê đều để lại cho hậu thế những bài học sống động. Cho tới nay những bài học này vẫn còn nguyên giá trị.

PV: - Cảm ơn và kính chúc nhà văn mạnh khoẻ!

Trần Ngọc Kha thực hiện

(Người Cao Tuổi/ Chúng Ta)

Sâu Ciu Blog